Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Câu Chuyện về BARLAAM VÀ JOASAPH hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôn giáo

29 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9303)
Câu Chuyện về BARLAAM VÀ JOASAPH hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôn giáo


Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ 
TRONG MỖI CHÚNG TA 
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

CÂU CHUYỆN VỀ BARLAAM VÀ JOASAPH
hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôn giáo


 Câu chuyện dưới đây thật xa xưa, có lẽ đã xảy ra từ thời Trung cổ tại Âu châu và cả nhiều thế kỷ trước đó tại Trung đông. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể khởi đầu câu chuyện với một sự kiện chính xác hơn xảy ra vào thế kỷ XVI khi tòa thánh La-mã phong thánh cho hai vị mang tên là Barlaam và Joasaph, và chọn ngày 27 tháng 11 mỗi năm để làm ngày tưởng niệm họ. Riêng Chính thống giáo (Orthodoxe) thì chọn ngày 26 tháng 8.

 Thật ra thì một sự bí mật dầy đặc đã bao trùm cả hai nhân vật Barlaam và Joasaph gần suốt một ngàn bốn trăm năm kể từ thế kỷ thứ VI cho đến giữa thế kỷ XIX. Các học giả và sử gia Tây phương trước thế kỷ XIX đều bó tay, không thể biết đích xác hai nhân vật ấy là ai và xuất xứ từ đâu, nhất là họ lại còn kinh ngạc hơn nữa khi khám phá ra là hai nhân vật này đồng thời cũng đã xuất hiện trong các truyền thuyết Hồi giáo với cái tên là Bilawahr và Bodhasaph. Người ta chỉ biết là chuyện kể về hai nhân vật ấy rất phổ biến vào thời Trung cổ tại Âu châu. Câu chuyện được tóm lược như sau.

Hai vị thánh Barlaam và Joasaph

 Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph. Khi đứa bé mới ra đời có một nhà tiên tri đã đoán là sau này khi lớn lên thì đứa bé sẽ theo đạo Thiên chúatừ bỏ ngai vàng. Vua Abener là người rất thù ghét Thiên chúa giáo vì thế những lời tiên đoán này đã làm cho ông phải canh cánh lo âu, và sau cùng thì ông quyết định nuôi nấng hoàng tử trong cảnh xa hoa của cung điện, biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài.

 Khi lớn lên, một hôm hoàng tử van nài vua cha cho phép mình được dạo chơi một lần bên ngoài thành, và vua cha cũng xiêu lòng. Trong chuyến du hành đó vị hoàng tử trẻ tuổi trông thấy một người cùi, một người mù, một người già, và ý thức được là tất cả mọi người đều phải gánh chịu khổ đau, bịnh tật và cái chết.

 Sau chuyến du hành ấy thì có một nhà tu khổ hạnh tên là Barlaam, trước đây đã từng nghe đồn đại về những lời tiên đoán về tín ngưỡng sau này của hoàng tử, bèn quyết định ngụy trang làm một người lái buôn giàu có và tìm đến cung điện của vua Abener. Ông tìm cách tiếp xúc với hoàng tử Joasaph và kể cho cậu nghe về Chúa Giê-xu. Câu chuyện Chúa Giê-xu làm cho cậu mủi lòng và rồi đức tin vụt phát hiện trong lòng cậu và liền sau đó thì cậu xin được rửa tội.

 Sau khi rửa tội cho hoàng tử Joasaph thì nhà tu khổ hạnh Barlaam quay về nơi ẩn cư của mình. Riêng vua Abener thì phải đối đầu với đứa con say mê Thiên chúa giáo quá mức. Ông tìm đủ mọi cách giúp con mình thức tỉnh, chẳng những không thành công mà lại còn bị con ông thuyết giảng cho nghe về Thiên chúa giáo. Sau cùng thì vua Abener cũng xiêu lòngđồng ý cải đạo.

Sau đó ít lâu thì vua Abener băng hà, hoàng tử Joasaph chẳng những không lên ngôi mà còn từ bỏ cả cuộc sống thế tụctrở thành một nhà tu khổ hạnh. Ông đi tìm vị thầy của mình là Barlaam và hai thầy trò tìm đến một nơi hoang vu để cùng nhau suy tư và sống cuộc đời ẩn dật.

 Câu chuyện trên đây được truyền tụng qua nhiều thế kỷ trong khắp các quốc gia Âu châu và các vùng lãnh thổ Hồi giáo tại Trung đông. Màu sắc tôn giáo cũng vì thế được biến đổi để phù hợp với tín ngưỡng của từng nơi, và đồng thời một số chi tiết cũng được thêm thắt, tuy nhiên cốt truyện và vai trò của hai nhân vật chính thì không có gì thay đổi đáng kể.

 Nguồn gốc câu chuyện Barlaam và Joasaph

 Từ lâu hầu hết các học giả và sử gia đều nghĩ rằng câu chuyện trên đây là do thánh Jean Damacène sống vào thế kỷ thứ VIII kể lại, tuy nhiên các công trình khảo cứu gần đây hơn cho thấy là lịch sử câu chuyện này khá phức tạp. Tư liệu và những khảo cứu của các học giả, sử gia và chuyên gia về tôn giáo thật vô cùng dồi dào, tuy nhiên thiết nghĩ chúng ta cũng chỉ cần căn cứ vào công trình khảo cứu rất khoa học của một học giả lỗi lạc người Gia-nã-đại là Wilfred Cantwell Smith (1916-2000) là cũng đủ, là giáo sư chuyên khoa về Tôn giáo đối chiếu (Comparative religion) và từng là giám đốc của "Trung tâm Nghiên cứu về các Tôn giáo Thế giới" (Center for the Study of World Religions) thuộc đại học Harvard, từ năm 1964 đến 1973. Sau đây là tóm lược một vài kết quả nghiên cứu của ông.

 Theo Wilfred Cantwell Smith thì câu chuyện xuất hiện trước hết từ một bộ kinh bằng tiếng Phạn của Phật giáo Bắc tông là kinh Lalitavistara, được soạn thảo vào khoảng cuối thế kỷ thứ III hay đầu thế kỷ thứ IV. Tập kinh này đã được « phỏng dịch » sang tiếng Ba-tư vào thế kỷ thứ VI nhưng nội dung lại hoàn toàn đổi sang màu sắc của một tôn giáo khác gọi là tôn giáo Thiện-Ác (Manicheisme), do một người Ba-tư tên là Mani sáng lập từ thế kỷ thứ III, cách tu tập của tôn giáo này là cách dựa vào sự phân biệt giữa Thiện và Ác. Quyển sách "dịch thuật" trên đây mang tựa đề là "Kitab Bilawhar wa Yadasaf" và đã từng giữ một vị trí khá quan trọng trong nền văn hóa Hồi giáo nói chung, đặc biệt đã được phổ biến rộng rãi tại kinh đô Bagdad vào thế kỷ thứ VIII.

 Sau đó thì quyển sách này lại được « dịch » sang tiếng Géorgie (Liên sô cũ) vào thế kỷ thứ X, nhưng lần này thì nội dung lại được Thiên chúa giáo hóa hoàn toàn, và « dịch giả » là ai thì không được rõ. Sau đó lại có một tu sĩ người Georgie dịch quyển sách này từ tiếng Georgie sang tiếng Hy lạp. Không lâu sau khi quyển sách được phổ biến thì vị tu sĩ này bị giết vào năm 1028 tại thành Constantinople (ngày nay là thủ đô Istanbul của Thổ-nhĩ-kỳ). Và cũng tại thành phố này bản dịch đầu tiên ra tiếng La-tinh đã được thực hiện vào năm 1048 và được phổ biến rộng rãi tại Hy lạp. Một thời gian ngắn sau đó thì ấn bản bằng tiếng La-tinh trên đây đã lan tràn khắp các nước Tây phương từ Đông Âu cho đến Tây âu, và câu chuyện Barlaam và Joasaph từ đó trở nên vô cùng phổ thông trong toàn thể cộng đồng Thiên chúa giáo Tây phương. Sau đó thì quyển sách lại được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nữa như tiếng Ethiopie, Arménie, Islande... Vào thế kỷ XIII người ta lại tìm thấy thêm một bản dịch mới bằng tiếng Hê-brơ (Hébreu - tiếng Do thái cổ).

Các khảo cứu trên phương diện ngữ học

 Các kết quả nghiên cứu hiện đại về ngôn ngữ học, sử học... cũng đã chứng minh cho thấy là nội dung câu chuyện Barlaam và Joasaph đơn giản chỉ là một sự vay mượn từ sự tích của Đức Phật. Tóm lại lịch sử cuộc đời của Đức Phật đã được phổ biến và lan tràn khắp Âu châu rất lâu trước khi người Tây phương biết đến Phật giáo là gì. Bản dịch sang tiếng Georgie vào thế kỷ thứ X mang tựa đề là Balavariani là bản dịch đầu tiên chuyển từ tín ngưỡng Hồi giáo sang tín ngưỡng Cơ đốc giáo. Các học giả và các nhà ngôn ngữ học cho biết là tên vị thánh Joasaph trong câu chuyện trên đây là một biến dạng của chữ Bodhisattva (Bồ-tát) trong tiếng Phạn. Chữ Bodhisattva chuyển sang tiếng Ba-tư thành Bodasif, và chữ Bodasif lại tiếp tục bị biến dạng sau khi được chuyển sang các ngôn ngữ khác nữa.

Các học giả Hàn quốc thuộc Viện Đại học Quốc gia tại thủ đô Séoul cũng có nghiên cứu về vấn đề này. Theo các học giả Hàn quốc thì chữ Bodhisattva trở thành Bodisav trong các văn bản bằng tiếng Ba-tư thuộc các thế kỷ thứ VI và thứ VII, sau đó lại trở thành Budhasaf hay Yudasaf trong các tư liệu bằng tiếng Á-rập từ thế kỷ thứ VIII. Trong bản dịch đầu tiên mang nội dung chuyển sang tín ngưỡng Cơ đốc giáo vào thế kỷ thứ X thì chữ Budhasaf trở thành Iodasaf. Chữ Iodasaf sau đó lại trở thành Ioasaph trong tiếng Hy lạp kể từ thế kỷ thứ XI, và sau cùng lại biến thành Iosaphat hay Joasaph hay Josaphat trong các ấn bản bằng tiếng La-tinh. Tóm lại tên vị thánh Joasaph hay Josaphat trong câu chuyện Barlaam và Joasaph mà người ta thường thấy ngày nay là do chữ Bodhisattva (Bồ-tát) mà ra, và nội dung câu chuyện chính là sự tích của Đức Phật.

 Cũng xin kể thêm một chuyện khác bên lề các khảo cứu hoàn toàn khoa học như trên đây, đó là trường hợp của một tác giả người Đức tên là Holger Kerstein đã từng viết rất nhiều sách nói về Chúa Giê-xu tại Ấn độ, trong số các sách này có thể kể ra hai quyển được nhiều người biết đến nhất và cũng đã từng gây ra nhiều dư luận là quyển Jesus lived in India (Giê-xu từng sống ở Ấn độ) và quyển The Jesus Conspiracy (Âm mưu của Chúa Giê-xu). Cũng xin được minh chứng là theo thiển ý thì Holger Kerstein là một tác giả rất uyên bác, có trí tưởng tượng thật phong phú nhưng ông không phải là một khảo cứu gia chuyên nghiệp đúng với nghĩa của nó. Theo tác giả này thì tiếng Á-rập Judasaf hay Budhasaf xuất phát từ ngôn ngữ Ua-đu (Urdu, Ourdou) của xứ Pakistan và liên hệ mật thiết đến chữ Yuz-Asaf là tên của một vị thánh được đạo Ahmadisme nhận diện như là Chúa Giê-xu. Đạo Ahmadisme là một giáo phái Hồi giáo do Mirza Ghulam Ahmad sáng lập vào giữa thế kỷ XIX. Mirza Ghulam Ahmad cho rằng Chúa Giê-xu thật ra không hề bị đóng đinh mà đã trốn thoát sang Ấn độ và chết tại đây. Dầu sao đi nữa thì các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng chữ Phạn Bodhisattva qua trung gian của ngôn ngữ Ba-tư đã trở thành Yudasaf, Judasaph, Budhasaf...trong ngôn ngữ Á-rập vào thế kỷ thứ VIII. Trong khi đó nếu dựa vào giả thuyết của Mirza Ghulam Ahmad và Holger Kersten thì các chữ ấy xuất phát sớm hơn từ ngôn ngữ Ua-đu để ám chỉ Chúa Giê-xu, tức có nghĩa là đã xuất hiện vào thế kỷ thứ I (?). Theo các học giả và sử gia cũng như các nhà ngôn ngữ học thì không có tư liệu cụ thể nào cho thấy các chữ Á-rập Yudasaf, Judasaph, Budhasaf...xuất hiện trước thế kỷ thứ VIII.

Marco Polo và sự tích Đức Phật

 Như đã trình bày trên đây thì trong lúc Âu châu chưa hề biết đến Phật giáo là gì thì sự tích Đức Phật qua câu chuyện Barlaam và Joasaph đã được truyền bá khắp nơí với tất cả sự ngưỡng mộ và thành kính của người Tây phương. Tuy nhiên trước khi các học giả khám phá ra nguồn gốc vay mượn của câu chuyện trên đây thì Âu châu cũng đã có các tư liệu khác liên quan đến Đức Phật nhưng không hề có ai chú ý đến, có thể là vì người Tây phương từ nhiều trăm năm tự khép kín trong truyền thống tín ngưỡng của mình và không hề quan tâm đến những gì khác. Vào thế kỷ XIII, có một thương gia người Ý tên là Marco Polo rất thích phiêu lưu đã từng chu du khắp Trung đông, Ấn độ, Trung hoa và các miền viễn Đông và đã tường thuật lại nhiều chuyện tai nghe mắt thấy. Khi ghé vào đảo Tích Lan ông nghe kể chuyện về sự tích Đức Phật và đã ghi chép lại như sau :

Người dân trên đảo kể rằng "...Vị ấy tên là Sargamonym Borcam. Họ bảo rằng đấy là một người toàn thiện nhất trên thế gian này và vị ấy cũng là một vị thánh, theo ý nghĩa của họ. Theo lời họ kể thì vị ấy tuy là con trai của một trong những nhà vua rất giàu có, nhưng lại chỉ thích sống một cuộc sống tinh khiết không màng đến bất cứ thứ gì trong thế gian này, kể cả sau này sẽ được lên ngôi. [...]Vua cha vô cùng buồn khổ. Ông quyết định xây một cung điện thật nguy nga dành riêng cho con mình, và tuyển chọn những người con gái đẹp nhất chưa từng thấy để hầu hạ. [...] Nhưng hoài công vô ích, vì người con trai nói với vua cha là chỉ muốn đi tìm một người không bao giờ chết, vì chính mình đã nhận thấy tất cả mọi người đều chết, dù già hay còn trẻ. Vị ấy nhất định thực hiện quyết tâm của mình và không gì có thể lay chuyển được. Vào một đêm tối trời vị ấy trốn khỏi hoàng cung, tìm vào vùng núi non hẻo lánh để trau dồi đạo đức, vị ấy sống rất khắc khổ, nhịn ăn và chay tịnh giống như một người Thiên chúa giáo vậy [...], (trích từ quyển « Le Livre des Merveilles » (Quyển sách về những chuyện Kỳ diệu) của Marco Polo).

 Trong suốt một thời gian dài nhiều trăm năm không hề có một ai đã nhận thấy hay chú ý đến sự tương đồng giữa câu chuyện Barlaam và Joasaph với câu chuyện do Marco Polo thuật lại. Mãi cho đến giữa thế kỷ XIX khi bộ kinh Lalitavistara (Phổ diệu kinh), tức là bộ kinh "Trình bày chi tiết cuộc đời Đức Phật" được dịch ra ngôn ngữ Tây phương thì lúc đó các học giả Âu châu mới bật ngửa ra là nội dung câu chuyện Barlaam và Joasaph lại chính là sự tích của Đức Phật mà không còn một nghi vấn nào nữa. Ấy thế mà ngày nay "thánh tích" thiêng liêng (mà Phật giáo gọi là xá lợi) của thánh Joasaph vẫn được giữ gìn thật cẩn thận và thật tôn nghiêm với tất cả sự sùng kính tại nhà thờ Saint-André tại tỉnh Anvers của nước Bỉ.

Lời kết :

 Thật ra câu chuyện khám phá ra nguồn gốc của hai nhân vật Barlaam và Joasaph cũng chẳng có gì mới lạ. Sách vở, tư liệu vá các phúc trình nghiên cứu khoa học thật phong phú, chẳng hạn như một học giả người Đức là Robert Volk đã để ra 20 năm nghiên cứu về huyền thoại này và đã viết thành một tập sách 1100 trang. Các bản sách cổ chép tay với hình vẽ minh họa cũng như các di vật liên quan đến câu chuyện Barlaam và Joasaph đều được lưu trữ trong các bảo tàng viện khắp nơi tại Âu châu và cả Trung đông. Mục đích của bài viết ngắn này thì thật đơn giản, chỉ có ý mượn một câu chuyện trùng hợp giữa các tôn giáo để nêu lên một vài suy tư mà thôi.

 Trước hết là giá trị của sách vở và các huyền thoại nói chung, kể cả những bằng chứng hiển nhiên đó là những gì mà người tu tập cần phải cẩn thận. Hơn một ngàn năm, từ thế kỷ thứ VI cho đến thế kỷ XIX, xuyên qua nhiều tín ngưỡng và nhiều dân tộc khác nhau, đã có không biết bao nhiêu người sùng kính, ngưỡng mộ và tôn thờ hai nhân vật Barlaam và Joasaph, nhưng rốt lại thì sự thật là như thế, lòng thành kính của mình lại hướng vào một sự vay mượn từ một tín ngưỡng khác.

Sau khi nguồn gốc của câu chuyện được phơi bày thì không biết bao nhiêu học giả, sử gia, khoa học gia... đã thi nhau đổ xô vào đó để nghiên cứu. Công sức và thời giờ mà họ bỏ ra quả không tương xứng với kết quả mà họ mang lại, vì trên thực tế thì những kết quả đó cũng chẳng làm thay đổi được xã hội của chúng ta bao nhiêu, đấy là chưa nói đến trường hợp của nhiều người không hề quan tâm đến những chuyện « lẩm cẩm » như thế. Tóm lại tu tập là phải luôn tự hỏi là mình tu tập cái gì, cứu cánh của nó là gì và nó sẽ đưa mình về đâu.

 Thật vậy phần căn bản sơ đẳng trong tất cả các tín ngưỡng nói chung đều khá giống nhau, có nghĩa là có thể tháo ráp và lắp vào tôn giáo nào cũng được. Trái lại riêng Phật giáo thì gồm có hai khía cạnh thật khác biệt : sự tu tậptrí tuệ. Sự tu tập tượng trưng cho phần căn bản và còn gọi là phương tiện thiện xảo (tiếng Phạn là upaya) và trí tuệ thì tượng trưng cho kết quả. Phương tiện thì gồm có kinh điển, việc tụng niệm, sự sùng kính, các huyền thoại đủ loại để củng cố lòng tin, v.v..., trong khi đó thì Trí tuệcứu cánh tức là sự giác ngộgiải thoát.

 Phật giáo Tây tạng chủ trương phương tiện phải đi đôi với trí tuệ, nếu chỉ sử dụng phương tiện mà không thấy trí tuệ phát hiện thì việc tu tập ấy cũng hoài công mà thôi. Phương tiện trong Phật giáo Tây tạng rất màu mèphức tạp, nhưng không nên nghĩ rằng Phật giáo ấy dừng lại ở đó và đơn giản chỉ có thế : nghi lễ thực sự chỉ là phương tiện và phải làm phát sinh ra trí tuệ. Đối với Thiền học thì thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki bảo rằng Từ biBát nhãBát nhãTừ bi. Bát nhã có nghĩa là Trí tuệTừ biPhương tiện. Từ bi mà không làm phát hiện ra Trí tuệ cũng sẽ không mang lại lợi ích gì nhiều.

 Tóm lại nếu chỉ dừng lại ở phương tiện chẳng hạn như nghi lễ và lòng sùng kính rồi xem đấy là đủ thì tu tập theo tín ngưỡng nào cũng thế, tất cả cũng đều giống nhau như người ta thường nói. Câu chuyện Barlaam và Joasaph đã từng được sử dụng như một phương tiện cho nhiều tín ngưỡng khác nhau, nhưng kết quả mang lại thì rất khó để xác định. Trong một cấp bậc nào đó của tín ngưỡng thì Đức Phật cũng có thể đổi tên để trở thành Joasaph, Josaphat, Yudasaf, Iosaphat, v.v...

Boisséjour – Ceyrat, 07.08.10

 

Thánh Asaphat thuyết giảng (bản chép tay bằng tiếng Hy lạp, thế kỷ XII)

Một trang sách bằng tiếng Á-rập về huyền thoại Barlăm va Joaphat, tồn trữ trong thư viện của tu viện Balamand, thành phố Balamand – Syrie)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34299)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16848)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22957)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13043)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21924)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22161)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14856)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23555)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24073)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23604)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17121)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19336)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27024)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14402)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13829)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22668)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14717)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17346)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12655)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13854)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10398)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14664)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17192)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12528)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12687)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10348)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28699)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10685)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11121)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16863)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15761)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13331)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12544)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11350)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13017)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19301)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12236)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28562)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10036)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21498)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12773)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17802)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26197)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11685)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10835)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22721)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12027)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10596)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11373)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11511)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant