Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần IV: Vượt Qua Các Chướng Ngại

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8770)
Phần IV: Vượt Qua Các Chướng Ngại

NGHỆ THUẬT TẠO HẠNH PHÚC - THE ART OF HAPPINESS

Tác Giả: Đức Đạt Lai Lạt maBác Sĩ Howard C. Cutler
Dịch Giả: Tỳ kheo Thích Tâm Quang
Chùa Tam Bảo, Fresno, California, Hoa Kỳ - Phật Lịch 2547 - D.L. 2003

PHẦN IV
VƯỢT QUA CÁC CHƯỚNG NGẠI

 

CHƯƠNG 12
ĐƯỜNG DẪN ĐẾN QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI

QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI 

"Chúng ta đã thảo luận về khả năng hạnh phúc bằng cách tiến tới loại bỏ cách hành xử và trạng thái tâm tiêu cực của chúng ta. Nói chung, cái gì là phương pháp đạt được hạnh phúc để vượt qua những ứng xử tiêu cực và có những thay đổi tích cực trong đời sống của con người?" Tôi hỏi. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Bước đầu tiên liên quan đến học tập, giáo dục

"Trước đây, tôi có nói đến tầm quan trọng của học tập..."

"Có phải Ngài muốn nói về sự quan trọng của sự hiểu biết về những cảm xúc và hành xử tiêu cực tai hại đến thế nào cho sự theo đuổi hạnh phúc và những cảm xúc tích cực lại rất hữu ích ra sao? 

"Phải. Nhưng trong lúc thảo luận về con đường dẫn đến những thay đổi tích cực của chính mình, thì học tập là bước đi đầu tiên. Cũng có những nhân tố khác như: niềm tin chắc, quyết tâm, hành động, và nỗ lực. Vậy bước kế tiếp là phát triển niềm tin chắc. Học tập và giáo dục rất quan trọng vì chúng giúp người ta phát triển niềm tin chắc về nhu cầu cần thay đổi và giúp tăng cường trách nhiệm của con người. Niềm tin chắc muốn thay đổi sẽ phát triển thành quyết tâm. Kế tiếp, ta biến quyết tâm thành hành động - quyết tâm mạnh mẽ muốn thay đổi khiến chúng tanỗ lực bền bỉ để thực hiện những thay đổi thực tế. Nhân tố nỗ lực cuối cùng này có tính chất quyết định

"Cho nên, thí dụ, nếu bạn muốn không hút thuốc nữa, trước tiên bạn phải ý thức là hút thuốc có hại cho cơ thể. Bạn phải được dạy dỗ. Tôi nghĩ, chẳng hạn, sự thông tin và giáo dục công chúng về hậu quả tai hại của hút thuốc để thay đổi hành động của con người, tôi nghĩ rằng ngày nay một số người hút thuốc tại các nước Phương Tây ít hơn ở các nước cộng sản như Trung Hoa vì sự hiệu lực của thông tin. Nhưng chỉ học không thôi chưa đủ. Bạn phải tăng cường ý thức đó cho đến khi tiến tới tin chắc về những hậu quả tai hại của hút thuốc. Điều này củng cố sự quyết tâm thay đổi. Cuối cùng, bạn phải nỗ lực lập kiểu thói quen mới. Đấy là con đường mà thay đổi và sự biến đổi nội tâm xẩy ra trong mọi sự việc, bất cứ vấn đề gì mà bạn đang cố hoàn thành

"Giờ đây, dù bạn đang tìm cách thay đổi hành vi nào, dù bạn đang hướng nỗ lực vào bất cứ mục tiêu đặc biệt nào hay hành động nào, bạn cần phải bắt đầu bằng cách phát triển một sự sẵn sàng mạnh mẽ hay mong ước làm việc đó. Bạn cần phải có lòng nhiệt tình to lớn. Và ở đây, ý thức cấp bách là nhân tố chủ chốt. Ý thức cấp bách này là một nhân tố mạnh mẽ giúp bạn vượt qua các khó khăn. Thí dụ, kiến thức về những hậu quả nghiêm trọng của bệnh AIDS đã tạo ra một ý thức cấp bách đã ngăn chặn hoạt động tình dục của nhiều người. Tôi nghĩ rằng, thường khi bạn nhận được thông tin xác đáng, thì ý thức về tính chất nghiêm trọng và cam kết sẽ tới. 

"Vì vậy ý thức cấp bách này có thể là một nhân tố quan trọng đem lại sự thay đổi. Nó sẽ cho chúng ta nguồn sinh lực to lớn. Ví dụ trong một biến động chính trị, nếu có một ý nghĩ tuyệt vọng, sẽ có có một ý thức cấp bách to lớn - đến nỗi người ta quên cả đói, và không có cảm gì mệt mỏi hay kiệtsức trong việc theo đuổi mục tiêu của họ. 

"Ý nghĩa quan trọng của sự cấp bách không chỉ áp dụng để vượt khó khăn ở mức độ cá nhân, mà cón còn ở mức độ cộng đồng và toàn cầu. Khi tôi ở St Louis, tôi gặp ông thống đốc. Tại đây, nạn lụt nặng nề mới xẩy ra. ông thống đốc cho tôi biết khi lụt mới xẩy ra, ông rất quan ngại về tính chất chủ nghĩa cá nhân của xã hội, có thể dân chúng không mấy góp phần hợp tác, họ có thể không cam kết dân thân vào nỗ lực phối hợpcộng tác này. Nhưng khi việc khủng hoảng xẩy ra, ông hết sức sửng sốt bởi sự đáp ứng của dân chúng. Dân chúng hết sức hợp tác và dân thân vào nỗ lực phối hợp ứng phó với những vấn đề lụt khiến ông hết sức cảm kích. Cho nên theo tôi, điều này cho thấy muốn đạt được mục tiêu quan trọng, chúng ta cần một sự đánh giá cao ý thức cấp bách, giống như trường hợp này, cơn nguy cấp bách đến nỗi dân chúng tự động tham gia các lực lượng và phản ứng nhanh lúc nguy kịch Bất hạnh thay, "ông nói một cách buồn bã, "thường thường chúng ta không có ý thức cấp bách đó". 

Tôi hết sức ngạc nhiên nghe thấy ông nhân mạnh sự quan trọng của ý thức cấp bách căn cứ vào ân tượng sâu sắc của người Tây Phương. Về thái độ "Mặc kệ nó " của người Á Châu sinh ra bởi tin rằng có nhiều kiếp sống, nếu bây giờ không xẩy ra, thì bao giờ cũng xẩy ra vào lần kế tiếp

"Nhưng rồi câu hỏi làm sao Ngài có thể phát triển ý thức nhiệt tình mạnh mẽ để thay đổi hoặc ý thức cấp bách trong đời sống hàng ngày? Có một con đường đặc biệt nào của Phật Giáo giải quyết vấn đề không?" Tôi hỏi Ngài.

"Đối vói những người hành trì Phật Giáo, có nhiều kỹ thuật được dùng để tạo ra lòng nhiệt tình". Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời." Muốn sản sinh lòng tin và lòng nhiệt tình chúng ta tìm thấy trong kinh điển Phật Giáo cuộc thảo luận về tính quý báu của đời sống con người. Chúng ta nói về bao nhiêu tiềm năng nằm trong phạm vi cơ thể, ý nghĩa của nó như thế nào, những mục đích thiện mà nó có thể được sử dụng lợi íchthuận lợi có hình dạng con người, vân vân... Và những cuộc thảo luận này là để thấm nhuần lòng tin cậy và lòng can đảm và dem lại ý thức cam kết sử dụng thân người của ta một cách tích cực.

"Rồi, muốn sản sinh ý thức cấp bách góp phần vào việc tu tập tinh thần, người hành trì phải nhớ đến vô thường, cái chết. Khi chúng ta nói đến vô thường trong phạm vi này là chúng ta đang nói bằng ngôn ngữ rất thông thường, không phải về khía cạnh huyền ảo của quan niệm vô thường. Nói một cách khác, chúng ta phải nhớ rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn ở đây nữa. Loại hiểu biết đó, sự nhận thức vô thường đó được khuyến khích, cho nên khi nó đi đôi với sự đánh giá cao về tiềm năng to lớn của đời sống con người, nó sẽ cho ta ý thức về sự cấp báchchúng ta phải sử dụng trong mọi giờ phút."".

"Suy tưởng về vô thường và cái chết của chúng ta dường như là một kỹ thuật mạnh" Tôi nhận xét, " giúp thúc đẩy ta, phát triển ý thức cấp bách đem lại những sự thay đổi tích cực. Kỹ thuật này có thể sử dụng cho người không phải Phật Tử được không? 

"Tôi nghĩ rằng ta có thể nên cẩn thận trong việc áp dụng những kỹ thuật khác nhau cho người không phải là Phật Tử." Ngài nói một cách suy tư." Có lẽ có thể áp dụng nhiều hơn trong sự tu tập Phật Giáo: "Rút Cuộc".. Ngài cười, " ta có thể sử dụng sự suy tưởng đúng là cho mục tiêu trái ngược- "Ồ, không cần gì bảo đảm là ngày mai tôi còn sống, cho nên tốt hơn là tôi nên có nhiều điều vui hôm nay!" 

"Ngài có gợi ý gì cho người không phải là Phật Tử, cách phát triển ý thức cấp bách?"

Ngài trả lời, "Như tôi đã lưu ý, đó là chỗ có thông tin và giáo dục dồi dào. Thí dụ, trước khi tôi gặp một số chuyên gia hay các nhà chuyên môn, tôi không có ý thức gì về khủng hoảng môi sinh. Nhưng một khi tôi gặp họ rồi, và họ giảng giải những vấn đềchúng ta đang đối mặt, thì tôi nhận thức được tính nghiêm trọng của tình hình. Điều này cũng có thể áp dụng cho những vấn đề khác mà chúng ta phải đối đầu

"Nhưng đôi khi, dù có tin tức, chúng ta vẫn không có nghị lực để thay đổi. Làm sao ta có thể vượt qua được?" Tôi hỏi Ngài. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút để suy nghĩ rồi nói, " Tôi nghĩ ở đây chúng ta có nhiều loại khác nhau. Một loại có thể phát sinh từ một số nhân tố sinh học, nhân tố này có thể gây ra tính lãnh đạm hay thiếu nghị lực. Khi nguyên nhântính lãnh đạm hay thiếu nghị lực do nhân tố sinh học, ta cần phải tác động vào lối sống của ta. Cho nên, nếu ta cố gắng ngủ cho đủ, ăn uống điều độ, không uống rượu, vân vân.., những điều ấy làm cho đầu óc ta sáng suốt hơn. Trong một số trường hợp, ta cũng cần đến thuốc men hay những vật lý trị liệu nếu nguyên nhân là do bệnh tật. Nhưng có một loại lãnh đạm hay lười biếng khác - loại này phát sinh do nhược điểm của tâm..." 

"Phải, chính là loại mà tôi đề cập tới" 

"Muốn vượt qua loại lãnh đạm này, và tạo ra sự cam kết và lòng nhiệt tình là để khắc phục cách hành xử hay tâm trạng tiêu cực, tôi nghĩ phương pháp hiệu quả nhất, và có lẽ giải pháp duy nhất là luôn luôn ý thức những hậu quả phá hoại của hành xử tiêu cực. Ta cần phải luôn nhắc nhở mình về những hậu quả phá hoại ấy. 

Những lời nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma nghe có vẻ đúng, tôi là một thầy thuốc trị bệnh tâm thần, tôi ý thức sâu xa về số hành xử tiêu cực và cách suy nghĩ đã trở thành cố hữu nặng như thế nào, khó khăn biết bao cho một số người để thay đổi. Giả sử là có những nhân tố có động lực tâm lý dang hoạt động, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thì giờ vào quan sát và phân tích kỹ lưỡng những sự chống đối thay đổi của bệnh nhân. Đắn đo điều này, tôi hỏi:

"Người ta thường muốn có những sự thay đổi tích cực trong đời sống, tham gia và những hành động lành mạnh hơn, vân vân... Nhưng đôi khi hồ như đó chỉ là quán tính hay sự chống lại... Làm sao Ngài có thể giải thích việc đó xẩy ra như thế nào? "Thật dễ dàng..." Ngài bắt đầu một cách tự nhiên

"Dễ dàng?"

"Chính là vì chúng ta hoàn toànthói quen hay làm việc theo một số cách nào đó. Rồi chúng ta phần nào bị hư hỏng, chỉ thích làm những điều mình muốn làm, những điều mình thường vẫn làm."

"Nhưng làm sao có thể vượt qua được những điều đó?

"Bằng cách dùng quá trình làm quen với hoàn cảnh thuận lợi của ta. Do tính quen thuộc liên tiếp, nhất định chúng ta có thể lập được kiểu hành xử mới. Đấy là một thí dụ: Tại Dharamsala tôi luôn luôn dậy và bắt đầu làm việc lúc 3:30 sáng, mặc dù tại Arizona, tôi dậy vào lúc 4:30 sáng, tôi ngủ thêm được một giờ", Ngài cười."Lúc đầu bạn cần phải có chút cố gắng để tập cho quen, nhưng sau một vài tháng, nó trở thành thường lệ và bạn không cần phải nỗ lực đặc biệt nữa. Cho nên dù bạn đi ngủ muộn, bạn có thể có khuynh hướng muốn ngủ thêm ít phút nữa, nhưng bạn vẫn dậy vào lúc 3:30 sáng mà không phải có một ý địnhđặc biệt cả, và bạn có thể dậy và làm các công việc thường lệ hàng ngày. Đó là do sức mạnh của thói quen

"Cho nên, bằng nỗ lực kiên định, chúng ta có thể khắc phục được bất cứ hoàn cảnh tiêu cực nào và làm những thay đổi tích cực trong đời sống chúng ta. Nhưng bạn vẫn cần hiểu rằng sự thay đổi thật sự không thể xẩy ra trong một đêm được. Bây giờ, thí dụ, trường hợp của chính tôi, tôi cho rằng nếu tôi so sánh tâm trạng bình thường của tôi ngày nay với 20 hay 30 năm trước đây chẳng hạn,rõ ràng là có một sự khác biệt lớn. Nhưng sự khác biệt này, xẩy ra bước một, tôi bắt đầu học Phật Giáo khoảng năm hay sáu tuổi, nhưng vào lúc đó tôi không quan tâm gì đến lời Phật dạy, " Ngài cười, "Mặc dầu người ta gọi tôi là hiện thân cao nhất. Tôi cho rằng không phải cho đến năm tôi khoảng 16 tuổi, tôi mới thực sự có một số cảm giác nghiêm túc nào đó về Phật Giáo. Và tôi cố gắng bắt đầu tu tập đứng đắn. Rồi qua nhiều năm, tôi bắt đầu phát triển sự am hiểu sâu xa về những nguyên tắc Phật Giáo, về những cách tu tập, lúc mới đầu dường như khó có thể thực hành được và hầu như là trái tự nhiên, nhưng rồi trở nên rất tự nhiêndễ hiểu. Điều này xẩy ra qua sự làm quen dần dần. Đương nhiên, tiến trình này đã mất dến hơn 40 năm.

"Cho nên, bạn biết đây, trong thực tế, sự phát triển tinh thần cần có nhiều thì giờ. Nếu ai đó nói, "Ồ, qua nhiều năm khó nhọc mọi việc đã thay đổi ", tôi nghiêm chỉnh đồng ý. Có nhiều khó khăn thay đổi là đúng và lâu dài. Nếu một người nào đó nói 'õ chỉ trong một thời gian ngắn, hai năm chẳng hạn, đã có một sự thay đổi lớn lao' tôi nghĩ rằng điều đó không thực tế."

Trong khi con đường thay đổi của Đức Đạt Lai Lạt Mahợp lý không cần phải bàn cãi, có một vấn đề dường như cần phải điều hòa:

"Ngài đã nói đến sự cần thiết phải có một mức nhiệt tình và quyết tâm cao độ để biến đổi tâm, để có những thay đổi tích cực. Nhưng cùng lúc chúng ta thừa nhận sự thay đổi đích thực xẩy ra rất chậm và phải mất nhiều thì giờ ". Tôi ghi nhận."Khi thay đổi xẩy ra rất chậm chạp, rất dễ trở nên chán nản. Có bao giờ Ngài cảm thấy chán nản bởi mức tiến bộ chậm chạp về sự tu tập tinh thần của Ngài hay chán nản ở những lãnh vực khác trong đời sống của Ngài."

Ngài nói: "Có chứ, chắc chắn có" 

Tôi hỏi: "Ngài xử trí với việc ấy ra sao?"

"Ở một chừng mực nào đó trong việc tu tập tinh thần của tôi nếu tôi gặp một số trở ngại hay khó khăn, tôi thấy nó rất hữu dụng để lùi lại và có một quan điểm lâu dài chứ không phải một quan điểm ngắn hạn. Về mặt này, tôi thấy nghĩ về một bài kệ đặc biệt cho tôi lòng can đảm và giúp tôi giữ vững quyết tâm. Cấu kệ ấy như sau:

Chừng nào còn có chỗ tồn tại
Chừng nào còn chúng sanh 
Xin cho tôi được sống 
Để xua tan nỗi khổ trên thế gian này.

"Tuy nhiên, trong chừng mực liên quan đến cuộc tranh đấu cho tự do của Tây Tạng, nếu tôi sử dụng niềm tin này, những vần thơ ấy- phải sẵn sàng chờ đợi "hết vạn kỷ này đến vạn kỷ khác ...chừng nào còn có chỗ tồn tại " và vân vân... thì tôi nghĩ rằng tôi sẽ là kẻ dại dột. Ở đây ta cần phải dồn hết tâm trí tức khắc và tích cực hơn. Đương nhiên, trong tình trạng này, sự tranh đấu cho tự do, khi tôi nghĩ về nỗ lực 14 và 15 năm thương lượng mà không kết quả, khi tôi nghĩ đến 15 năm thất bại, tôi nhiễm một cảm giác nôn nóng hay nản lòng. Nhưng cảm nghĩ nản lòng này không làm tôi mất can đảm đến mức mất không hy vọng". 

Nhân mạnh vấn đề thêm một chút nữa tôi hỏi Ngài, "Nhưng đúng ra là cái gì ngăn cản Ngài không mất hy vọng?

"Dù trong tình trạng của Tây Tạng, tôi nghĩ rằng quan sát tình hình từ một triển vọng rộng hơn, nhất định sẽ có ích. Cho nên, chẳng hạn tôi nhìn tình hình bên trong Tây Tạng từ một tiển vọng hẹp chỉ tập trung vào điều đó, rồi thì tình hình có vẻ hầu như vô vọng. Tuy nhiên khi nhìn từ một triển vọng rộng hơn, nhìn từ triển vọng thế giới, thì tôi thấy tình hình quốc tế trong đó toàn bộ hệ thống cộng sản và độc tài đang sụp đổ, ngay cả Trung Hoa cũng có phong trào dân chủtinh thần của người Tây Tạng vẫn còn cao. Cho nên tôi không bỏ cuộc". 

Căn cứ vào kiến thức rộng và sự rèn luyện về triết lý và thiền định Phật Giáo, quả là thú vị thấy Đức Đat Lai Lạt Ma nhận biết học tập và giáo dục là bước thứ nhất mang đến sự biến đổi bên trong chứ không phải là sự tu tập tinh thần huyền bí. hay tiên nghiệm. Mặc dù giáo dục được thừa nhận chung là quan trọng trong việc học tập những kỹ năng mới hay để bảo đảm công việc nhưng vai trò của giáo dục là một nhân tố chủ yếu để giành hạnh phúc đã không được mọi người chú ý tới. Tuy nhiên các nghiên cứu ngay cả giáo dục lý thuyết thuần túy cũng trực tiếp liên kết tới cuộc sống hạnh phúc. Nhiều cuộc khảo sát đã tìm thấy kết luận là mức giáo dục càng cao đã có mối tương quan tích cực với sức khỏe càng tốt và sống càng thọ, và thậm chí còn bảo vệ cá nhân khỏi suy nhược. Trong cố gắng xác định lý do vì sao tác động của giáo dục có nhiều lợi ích, các khoa học gia đã lý luận là những cá nhângiáo dục tốt hơn nhận thức được nhiều hơn về những yếu tố rủi ro xho sức khỏe, có nhiều khả năng hơn trong việc chọn lựa lới sống lành mạnh hơn, cảm nhận được quyền hạn được trao và tự trọng hơn, có kỹ năng giải quyết vấn đề tốt hơn, và có những chiến lược đối phó hiệu nghiệm hơn - tất cả những nhân tố có thể góp phần cho đời sống hạnh phúclành mạnh hơn. Cho nên, nếu chỉ giáo dục lý thuyết đơn thuần liên hệ đến đời sống hạnh phúc hơn, thì sự học tập và giáo dục mà Đức Đạt lai Lạt Ma nói mạnh đến như thế nào - giáo dục đặc biệt tập trung vào sự hiểu biếtthi hành toàn bộ các nhân tố dẫn đến một hạnh phúc trường cửu? 

Bước kế tiếp trong con đường thay đổi của Đức Đạt Lai Lạt Ma đòi hỏi phải tạo ra 'quyết tâm và lòng nhiệt tình'. Bước này cũng được khoa học hiện đại Tây phương chấp nhận là một nhân tố quan trọng trong việc đạt mục tiêu của mình. Trong một cuộc nghiên cứu, chẳng hạn, nhà tâm lý học giáo dục Benjamin Bloom đã khảo sát đời sống của một số người Hoa Kỳ thành đạt như nghệ sĩ, lực sĩ, và khoa học gia. ông khám phá ra nỗ lựcquyết tâm chứ không phải tài năng thiên phú dẫn đến thành công trong lãnh vực của mình. Vì trong bất cứ lãnh vực nào khác, ta có thể cho rằng nguyên tắc này được áp dụng đồng đều vào nghệ thuật tạo hạnh phúc

Những nhà khoa học nghiên cứu cách cư xử của con người đã nghiên cứu sâu rộng cơ cấu đề xướng, duy trì và hướng dẫn những hoạt động của chúng ta liên quan đến lãnh vực này là việc nghiên cứu "động cơ thúc đẩy của con người". Những nhà tâm lý học nhận dạng ra ba loại động cơ chính. Loại thứ nhất, động cơ chính yếu, là nỗ lực căn cứ vào nhu cầu sinh học phải được đáp ứng để tồn tại. Thí dụ loại này gồm có nhu cầu về thực phẩm, nước và không khí. Một loại động cơ khác đòi hỏi con người cần phải có sự kích thích và thông tin. Những nhà điều tra nghiên cứu giả thuyết rằng đó là nhu cầu bẩm sinh, bắt buộc để trưởng thành, phát triển và hoạt động hệ thống thần kinh. Loại cuối cùng, gọi là động thứ yếu, là những động cơ căn cứ vào những nhu cầu đòi hỏi có học vân và những nỗ lực. Những động cơ thứ yếu này liên quan đến nhu cầu cần phải thành công, có quyền lực, địa vịthành tích. Ở mức động cơ thúc đẩy này, hành vinỗ lực của ta có thể bị ảnh hưởng bởi những thế lực xã hội và được định hướng do học tập. Chính trong giai đoạn này, những lý thuyết về tâm lý học hiện đại trùng hợp với quan niệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma về "quyết tâm và lòng nhiệt thành". Tuy nhiên trong hệ thống của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tạo ra được nỗ lựcquyết tâm không chỉ sử dụng để tìm cầu thành công vật chất mà còn để phát triển khi ta đạt được sự hiểu biết rõ ràng hơn về các nhân tố dẫn đến chân hạnh phúc và được sử dụng vào các mục tiêu cao hơn như lòng tốt, từ bi, và mở mang tinh thần

"Tinh Tân" là nhân tố cuối cùng mang đến về sự thay đổi. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận dạng tinh tân là một nhân tố cần thiết để thiết lập điều kiện mới. Thay đổi lối ứng xủ và tư tưởng tiêu cực nhờ điều kiện mới là ý tưởng không những được đồng quan điểm với tâm lý gia Tây Phương, mà thực ra còn là nền tảng củapháp điều trị cách ứng xử hiện đại. Loại điều trị này dựa vào lý thuyết căn bản là phần lớn con người biết tình trạng của họ (cá tính, lề thói...), và bằng cách đưa ra chiến lược tạo các điều kiện mới, phép điều trị cách ứng xử chứng tỏ rất hữu hiệu với hàng loạt vấn đề

Trong khi khoa học mới khám phá ra rằng khuynh hướng của 'gen' rõ ràng là đóng một vai trò trong cách phản ứng đặc thù trước việc đời của một cá nhân, hầu hết các nhà khoa học xã hội và các nhà tâm lý học cảm thấy rằng phần lớn cách ứng xử, suy nghĩ và cảm nhận của con người là do học tập và điều kiện hoàn cảnh, ấy là do sự dạy dỗ và ảnh hưởng của văn hóaxã hội chung quanh chúng ta. Và vì người ta tin rằng cách ứng xử phần lớn được thiết lập bởi điều kiện tùy thuộc, được củng cố và khuếch đại bởi "thói quen" đưa đến khả năng như Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định, phá bỏ các điều kiện có hại hay tiêu cực và thay thế chúng bằng điều kiện có ích, nâng cao đời sống

Tinh tân bền bỉ thay đổi cách ứng xử bên ngoài không những giúp ích cho việc khắc phục những thói xấu mà còn có thể thay đổi thái độ và cảm nghĩ cơ bản. Những cuộc thử nghiệm cho thấy không những thái độ và đặc diểm tâm lý của chúng ta quyết định cách ứng xử, một khái niệm thường được chấp nhận, mà cách ứng xử của chúng ta cũng có thể thay đổi thái độ của chúng ta. Những nhà nghiên cứu thấy cả đến một cái cau mày, hay nụ cười giả tạo cũng có khuynh hướng gây nên những cảm xúc giận dữ hay hạnh phúc, điều này có ý là "trải qua những cảm xúc", và làm đi làm lại trong cách ứng xử tích cực cưối cùng sẽ mang lại sự thay đổi thật sự ở bên trong. Điều này có thể có những hàm ý quan trọng trong cách xấy dựng một cuộc sống hạnh phúc hơn của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nếu chúng ta bắt đầu bằng một hành động đơn giản giúp đỡ thường xuyên người khác chẳng hạn, dù chúng ta không cảm thấy đặc biệt tử tế hay quan tâm, chúng ta có thể nhận ra biến đổi bên trong đang xẩy ra, khichúng ta dần dà phát triển từ bi đích thực. 

MONG ƯỚC THỰC TẾ 

Để dem lại sự biến đổi và thay đổi đích thực bên trong, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhân mạnh đến tầm quan trọng của sự tinh tân bền bỉ. Đó là một tiến trình diễn tiến từng bước một. Điều này trái ngược hẳn lại với sự nẩy nở của các "kỹ thuật và phép chữa trị tự lực sửa sang nhanh' trở nên quá đại chúng trong văn hóa Tây Phương trong những thập niên gần đây... những kỹ thuật từ "xác nhận tích cực" đến "khám phá đứa con bên trong của bạn".

Phương pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho thấy sự phát triển và trưởng thành chậm. Ngài tin tưởng vào sức mạnh to lớn của tâm thấm chí đến mức vô hạn - nhưng đó là tâm đã được huân luyện có hệ thống, được nhắm đúng hướng và tập trung, tâm được tôi luyện bằng nhiều năm kinh nghiệm và biết suy luận. Phải mất nhiều thời gian lâu mới làm cho cách ứng xử và thói quen của tâm góp phần vào những vấn đề của chúng ta. Cũng phải mất nhiều thời gian tương đương để thiết lập những thói quen mới đem lại hạnh phúc. Không có gì ngoài các thành tố thiết yếu này: quyết tâm, tinh tân và thời gian. Đấy là những bí quyết thực sự của hạnh phúc

Khi đã dân thân trên con đường thay đổi, điều quan trọng là đề ra những mong ước hợp lý. Nếu những mong ước quá cao tự chúng ta sẽ thất vọng. Nếu mong ước quá thấp, ta dễ dàng chấp nhận giới hạn của chúng ta và không sẵn sàng vươn tới tiềm năng thực sự của chúng ta.Sau cuộc đàm luận về tiến trình thay đổi, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích:

"Không bao giờ bạn nên bỏ qua tầm quan trọng phải có một thái độ thực tế - phải nhậy cảm và tôn trong tình hình thực tế cụ thể của bạn trong khi bạn trên con đường tiến tới mục tiêu tối hậu. Công nhận những khó khăn cố hữu trên con đường của bạn, và sự thật nó đòi hỏi phải mất thì giờ và tinh tân bền bỉ. Quan trọng là phải nhớ phân biệt tâm giữa lý tưởngtiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ của bạn. Chẳng hạn là một Phật Tử, bạn đặt lý tưởng rất cao : giác ngộ viên mãnmong ước tối hậu của bạn.Tin rằng giác ngộ viên mãnthành tựu lý tưởng không phải là một cực đoan. Nhưng mong ước đạt được nhanh chóng, ngay tại chỗ trở thành cực đoan. Dùng điều đó làm tiêu chuẩn cho lý tưởng bạn trở nên chán nản và hoàn toàn mất hy vọng khi không nhanh chóng đạt được giác ngộ. Cho nên bạn cần các phương pháp thực tế. Mặt khác nếu bạn nói, "Tôi sẽ tập trung ngay bây giờ, đó là điều thiết thực, và tôi không cần quan tâm đến tương lai hay cuối cùng đạt được chủ yếu Phật Quả" thì đó lại là một cực đoan khác. Cho nên chúng ta cần tìm ra cách giải quyết ở khoảng giữa. Chúng ta cần tìm ra thế quân bình. "Xử lý vấn đề mong ước thực ra là một vấn đề phức tạp. Nếu bạn có những mong muốn thái quá mà không có nền móng chính đáng, thì nó thường dẫn đến có vấn đề Mặt khác, không có mong ướchy vọng, không có khao khát thì không có tiến bộ. Một số hy vọng rất cần thiết. Cho nên tìm thế quân bình thích đáng không phải là dễ dàng. Ta phải suy xét tình hình ngay tại chỗ". 

Tôi vẫn còn có những sự nghi ngờ dai dẳng mặc dù dứt khoát chúng ta có thể sửa chữa một số lối ứng xử và thái độ tiêu cực nếu đủ thời gian và tinh tân, thực ra có thể loại bỏ được những xúc cảm tiêu cực tới mức độ nào? Nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi bắt đầu: "Chúng ta có nói đến đến smột thực tếhạnh phúc cơ bản tùy thuộc vào việc loại bỏ cách ứng xử và tình trạng tinh thần tiêu cực - như giận dữ, sân hận, tham lamvân vân..." 

Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu

"Nhưng những loại cảm xúc ấy dường như là một phần tự nhiên thuộc bản chất tâm lý. Tất cả con người đều kinh qua những cảm xúc xấu ấy ở mức độ này hay mức độ khác. Và nếu điều đó là đúng, phải chăng ghét bỏ, phủ nhận, và chiến đấu với một phần của chính mình là hữu ý? Tôi muốn nói dường như không thực tế, thậm chí trái tự nhiên nếu cố gắng loại bỏ hẳn cái gì đó mà nó là một phần không thể thiếu trong bản chất tự nhiên của chúng ta? Lắc đầu, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời "Đúng, một số người cho là giận dữ, sân hận và những cảm xúc tiêu cực khác là một phần tự nhiên trong tâm chúng ta. Họ cảm thấy vì chúng là một phần tự nhiên của bản chất chúng ta, không có cách chi có thể thay đổi những trạng thái tinh thần này. Nhưng điều đó sai. Thí dụ, tất cả chúng ta sinh ra trong một tình trạng vô minh (không biết gì). Trong nghĩa ấy, vô minh cũng hoàn toàn tự nhiên. Dù sao, khi chúng ta còn trẻ, chúng ta hầu như không biết gì. Nhưng khi chúng ta lớn lên, ngày lại ngày, qua giáo dục và học tập chúng ta có thể giành được kiến thức và xua tan vô minh. Tuy nhiên nếu chúng ta sao lãng với chính mình trong tình trạng vô minh không có ý thức mở mang sự học hỏi, chúng ta sẽ không thể xua tan vô minh. Cho nên, nếu chúng ta bỏ quên mình trong "trạng thái tự nhiên" mà không nỗ lực xua tan vô minh, thì các nhân tố đối kháng hay tác động của giáo dục và học tập không tự nhiên mà đến. Và cũng giống như vậy, nhờ rèn luyện thích đáng, chúng ta dần dần có thể giảm những cảm xúc tiêu cực và tăng thêm trạng thái tâm tích cực như tình thương từ bi và khoan dung" 

"Nhưng nếu những điều này lại là một phần của tâm trí chúng ta, rút cục làm sao ta có thể thành công trong việc chiến đấu chống lại cái gì đó là một phần của chính chúng ta?"

"Để cân nhắc cách chống lại cảm xúc tiêu cực, rất cần biết tâm con người hành hoạt ra sao", Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời." Bây giờ, tâm con người đương nhiên rất phức tạp. Nhưng nó cũng rất tài tình. Nó có thể tìm ra nhiều cách giải quyết nhiều tình trạnghoàn cảnh. Đối với một vấn đề tâm có khả năng tiếp nhận những cách nhìn khác nhau, qua đó nó có thể suy nghĩ về những vấn đề khác nhau. 

"Trong phạm vi tu tập Phật Giáo, khả năng tiếp nhận những cách nhìn khác nhau được dùng trong một số cách thiền tập trong đó bằng tinh thần bạn phân lập chính mình thành những khía cạnh khác nhau rồi tham gia đối thoại với nhau. Chẳng hạn, trong một buổi thiền tập để nâng cao tính vị tha, qua đó bạn tham gia cuộc đối thoại giữa "thái độ tự cho mình là trung tâm của bạn", cái tôi là hiện thân của tính tự cho mình là trung tâm với chính bạn là người tu tập tinh thần. Hồ như có một quan hệ đối thoại. Ở đây cũng như vậy, mặc dù những nét tiêu cực như sân hậngiận dữ là một phần của tâm bạn, nhưng bạn có thể dùng sự cố gắng trong đó bạn lấy giận dữsân hận làm đối tượng và bạn chiến đấu với nó.

"Thêm vào, từ kinh nghiệm hàng ngày, bạn thường thấy mình trong tình trạng tự trách mình hay tự phê bình mình. Bạn nói, "ôi ngày ấy, ngày đó, tôi đã tự hạ mình. Rồi bạn tự phê bình bạn. Hay, bạn trách cứ mình đã làm điều sai hay đã không làm điều đó, và bạn cảm thấy giận mình. Cho nên ở đây cũng vậy, hồ như bạn tham gia vào vào cuộc đối thoại với chính bạn. Trong thực tế không có hai cái tôi riêng biệt, đó chỉ là sự tiệm tiến duy nhất của cùng một cá nhân. Dẫu vậy phê bình mình, cảm thấy giận dữ với chính mình là khôn ngoan. Đó là điều bạn biết rõ từ kinh nghiệm riêng của bạn. 

"Cho nên mặc dù trong thực tế chỉ có một sự tiệm tiến cá nhân mà thôi, nhưng bạn có thể tiếp nhận hai cách nhìn khác nhau. Điều gì xẩy ra khi bạn tự phê bình? Cái tôi đang phê bình được tiến hành từ một cách nhìn của chính bạn là một tổng thể toàn bộ bản thân của bạn, và cái tôi đang bị bị phê bình là một cái tôi từ một cách nhìn của một kinh nghiệm đặc biệt hay của một biến cố đặc biệt. Cho nên bạn có thể nhìn thấy mối quan hệ của cái tôi -với-cái-tôi này. 

Để nói rõ thêm về điểm này, có thể là rất hữu ích nếu suy nghĩ vế các khía cạnh thuộc cá tính của một người. Hãy lấy thí dụ một nhà sư Tây Tạng. Người đó có thể có ý thức về cá tính riêng từ cách nhìn của bản thân là một nhà sư, chính mình là một nhà sư'. Và rồi người đó cũng có thể có mức độ cá tính riêng không quan tâm nhiều đến tình trạng là một nhà tu hành mà là nguồn gốc sắc tộc, như một người Tây Tạng. cho nên người ấy có thể nói "Tôi là một người Tây Tạng". Rồi ở một mức độ khác, người ấy có thể có một cá tính khác trong đó tình trạng tu hành và sắc tộc không đóng bất cứ vai trò quan trọng gì. Người ấy có thể nghĩ, "Tôi là một con người". Cho nên bạn có thể thấy những cách nhìn khác nhau trong cá tính riêng của mỗi người. "Những gì điều này cho thấy là khi chúng ta hiểu về một cái gì đó bằng khái niệm, chúng ta có thể có khả năng nhìn vào một hiện tượng từ nhiều góc độ khác nhau. Và khả năng nhìn sự việc từ nhiều góc độ khác nhau hoàn toànlựa chọn, chúng ta có thể nhắm vào một góc độ đặc biệt nào đó, vào một khía cạnh đặc biệt nào đó của hiện tượng đó và áp dụng một cách nhìn đặc biệt nào đó. Khả năng này hết sức là quan trọng khi ta tìm cách nhận biếtloại bỏ một số khía cạnh tiêu cực của chính mình và nâng cao những nét tích cực. Vì khả năng áp dụng cách nhìn khác, chúng ta có thể tách mình ra làm nhiều phần rồi tìm cách loại bỏ và chiến đấu với chúng. 

"Bây giờ, để xem xét thêm đề tài này, một câu hỏi rất quan trọng phát sinh: Mặc dù chúng tathể tham gia vào việc chiến đấu chống lại giận dữ, sân hận và những trạng thái tiêu cực khác của tâm, nhưng cái gì bảo đảm hay chắc chắn chúng ta có thể giành chiến thắng?

"Khi nói về những trạng thái tiêu cực của tâm, phải nhân mạnh rằng tôi đề cập đến điều mà chúng tôi gọi là Nyon Mong trong tiếng Tây Tạng hay Kesha trong tiếng Phạn. Từ này có nghĩa đen là 'đau đớn ở bên trong'."Đó là một từ dài, cho nên nó thường được dịch là 'ảo tưởng'. Chính từ nguyên học của tiếng Tây Tạng, chữ Nyong Mong cho bạn hiểu ý nghĩa, đó là một sự cố xúc cảm và nhận thức bất thần làm bạn khổ tâm, phá hoại sự thanh thản, đầu óc của bạn, gây xáo trộn trong tâm trí bạn khi nó phát sinh. Nếu bạn chú ý thật kỹ, rất dễ nhận ra bản chất gây khổ sở của những "ảo tưởng" ấy chỉ vì chúng có khuynh hướng phá hoại sự an tĩnh và sự nhanh trí. Nhưng để xem chúng ta có thể khắc phục được chúng không thì khó hơn nhiều. Đó là câu hỏi trực tiếp liên quan đến toàn bộ khái niệm về sự nhận thức đầy dủ tiềm năng của tinh thần chúng tathể đạt được hay không. Và đó là một câu hỏi rất nghiêm túc và khó.

"Cho nên, cớ gì chúng ta phải chấp nhận rằng những xúc cảm khổ sở và sự cố nhận thức hay 'ảo tưởng' cuối cùng sẽ bị bật gốc hay bị loại bỏ khỏi tâm chúng ta. Trong tư tưởng Phật Giáo có ba tiền đề hay căn cứ mà chúng tôi tin tưởng rằng điều đó có thể xẩy ra. 

"Tiền đề thứ nhất là tất cả những trạng thái tâm bị "đánh lừa", tất cả những tư tưởngcảm xúc khổ sở, thực chất là bị bóp méo, trong đó chúng bám chắc vào nhận thức sai về hoàn cảnh thực tế. Dù mạnh đến đấu, thì trong cảm xúc tiêu cực ấy không có nền móng vững chắc. Chúng dựa vào vô minh. Mặt khác, mọi xúc cảm hay những trạng thái tâm tích cực như tình thương, từ bi, tuệ giác, vân vân... có nền móng vững chắc. Khi tâm trải qua những trạng thái tích cực này, không còn có sự bóp méo. Hơn nữa, những nhân tố tích cực này có căn cứ trên thực tế. Chúng có thể được kiểm chứng bằng kinh nghiệm của chính chúng ta. Hồ như có rèn luyện căn bản và bén rễ trong lý tríhiểu biết điều này không đúng với những xúc cảm khổ sở như giận dữsân hận. Thêm vào đó tất cả những trạng thái tích cực của tâm có đặc tính nâng cao khả năng của chúng và tăng thêm tiềm năng của chúng đến mức vô hạn, nếu bạn tu tập chúng đều đặn qua rèn luyện và làm quen không ngừng..."

Tôi ngắt lời Ngài, "Ngài có thể giải thích một chút nữa về điều mà Ngài muốn nói qua trạng thái tâm tích cực có một 'cơ sở vững chắctrạng thái tâm tiêu cực ckhông có cơ sở vững chắc?

Ngài minh định, "Thí dụ, từ bi là một cảm xúc tích cực. Để phát tâm từ bi, bạn bắt đầu bằng cách công nhận bạn không muốn khổ đau và bạn có quyền có hạnh phúc. Điều này có thể kiểm chứng hay được công nhậngiá trị bằng kinh nghiệm của chính bạn. Rồi bạn công nhận rằng những người khác, cũng giống mình, cũng không muốn khổ đau và họ cũng có quyền có hạnh phúc. Điều này trở thành cơ sở để bạn bắt đầu phát tâm từ bi

"Về cơ bản, có hai loại cảm xúctrạng thái tâm: tích cựctiêu cực. Một cách phân loại những cảm xúc ấy là, bằng hiểu biết thì những cảm xúc tích cực là những cảm xúc có thể chứng minh, và những cảm xúc tiêu cực thì không thể chứng minh được. Chẳng hạn, ở phần trên chúng tathảo luận về đề tài tham dục, làm sao có thể có tham dục tích cực hay tham dục tiêu cực. Tham dục vì nhu cầu căn bản là một loại tham dục tích cực. Nó có thể chứng minh được. Dựa vào thực tế là tất cả chúng ta đều sống và có quyền sinh tồn Và muốn tồn tại, có một số thứ chúng ta cần đến, một số nhu cầu cần phải có. Vậy loại tham dục này có nền móng vững chắc. Và như chúng ta đã thảo luận, có những loại tham dục tiêu cực như dục vọngtham lam quá đáng. Những loại tham dục này không dựa vào những lý do có căn cứ, và thường gây rắc rối và làm phức tạp cho đời sống. Những loại tham dục này đơn giảndựa vào cảm nghĩ bất mãn, muốn nhiều, cả đến những thứ không thực sự cần thiết. Những loại tham dục này không có lý do vững chắc ủng hộ chúng. Cho nên, trên phương diện này, chúng ta có thể nói những xúc cảm tích cực có một nền móng vững vànggiá trị, và những xúc cảm tiêu cực không có nền mónggiá trị này". 

Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục cuộc khảo sát tâm con người, mổ xẻ cách hoạt động của tâm trí bằng sự xem xét tỉ mỉ như nhà thực vật học sử dụng trong việc xếp loại các loài hoa hiếm.

"Bây giờ điều này mang chúng ta tới tiền đề thứ hai dựa vào lời khẳng định rằng những cảm xúc tiêu cực có thể trừ tận gốcloại bỏ. Tiền đề này căn cứ trên thực tế là các trạng thái tâm tích cực có thể thực hiện vai trò như thuốc giải độc cho những khuynh hướng tiêu cựctrạng thái ảo tưởng của tâm. Cho nên tiền đề thứ hai là khi bạn nâng cao khả năng của những nhân tố giải độc, sức mạnh của nó càng lớn thì bạn càng có thể giảm thiểu sức mạnh của các đau đớn tinh thầncảm xúc, bạn càng có thể giảm thiểu ảnh hưởng và hiệu qủa của những vấn đề đó. 

Khi nói về việc loại bỏ trạng thái tiêu cực của tâm, có một điểm phải nhớ. Trong phạm vi tu tập Phật Giáo, sự trau dồi một số các đức tính tích cực tinh thần đặc trưng như nhẫn nại, khoan dung, tử tế, vân vân... có thể thực hiện vai trò chất giải độc đặc biệt cho những trạng thái tiêu cực của tâm như giận dữ, sân hận, và luyến ái. Dùng chất giải độc như tình thươngtừ bi có thể giảm thiểu đáng kể mức độ hay ảnh hưởng của những đau đớn tinh thầncảm xúc, nhưng vì người ta tìm cách chỉ loại bỏ một số cảm xúc đau đớn riêng hay cá nhân,về một ý nghĩa nào đó, chúng có thể chỉ được coi là biện pháp cục bộ. Về cơ bản những xúc cảm khổ sở này như luyến áisân hận, bắt rễ nơi vô minh - quan niệm sai lầm về bản chất thực sự của thực tế. Cho nên, dường như có một sự nhất trí trong tất cả các truyền thống Phật Giáo là muốn khắc phục hoàn toàn những khuynh hướng tiêu cực này, ta phải dùng thuốc giải độc cho vô minh - "nhân tố Trí Tuệ". Điều này không thể thiếu được "Nhân tố Trí Tuệ" đòi hỏi phải có hiêu biết thấu đáo về bản chất thực sự của thực tế. "Vậy, trong phạm vi truyền thống Phật Giáo, chúng ta không những có thuốc giải độc đặc biệt cho trạng thái đặc biệt của tâm, thí dụ, nhẫn nại, khoan dung thực hiện vai trò thuốc giải độc đặc biệt cho giận dữsân hận, mà chúng ta còn có thuốc giải độc chung - thấu hiểu bản chất cơ bản của thực tế- nó thực hiện vai trò giải độc cho tất cả những trạng thái tiêu cực của tâm. Nó cũng giống như loại bỏ một cấy có chất độc: bạn có thể loại bỏ những hậu quả có hại bằng cách chặt những cành cấy chính và lá cấy, hay bạn có thể loại bỏ toàn bộ cái cấy bằng cách tìm rễ nó và bật rễ đi. 

Kết luận cuộc thảo luận về khả năng loại bỏ trạng thái tinh thần tiêu cực, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, "Tiền đề thứ ba nói về bản chất cốt lõi của tâm là thuần khiết. Nó căn cứ vào niềm tiný thức căn bản tiềm ẩn tinh tế không bị ô nhiễm bởi những xúc cảm tiêu cực. Bản chất của nó là thuần khiết, một trạng thái được coi là "Sáng Tỏ". Bản chất căn bản này của tâm cũng được gọi là Phật Tính. Cho nên, vì những xúc cảm tiêu cực không phải là một phần nội tại trong Phật Tính, ta có khả năng loại bỏ chúng và thanh tịnh tâm

"Vì vậy dựa vào ba cái tiền đề này Phật Giáo chấp nhận những đau đớn tinh thầncảm xúc cuối cùng có thể loại bỏ được nhờ chủ tâm trau dồi các sức mạnh giải độc như tình thương, từ bi, khoan dung, và vị tha, và nhờ những sự tu tập khác như thiền định."

Khái niệm bản chất tiềm ẩn của tâm là thanh tịnhchúng ta có khả năng loại bỏ hoàn toàn những kiểu suy nghĩ tiêu cực là một đề tài mà tôi đã được nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trước đây. Ngài đã so sánh tâm như một ly nước đục ngầu, trạng thái tinh thần đau đớn giống như những chất "dơ bẩn" hay bùn có thể loại bỏ để thấy bản chất thanh tịnh cơ bản của nước. Điều này có vẻ trừu tượng một chút, để đi vào sự quan tâm thực tiễn nhiều, tôi ngắt lời. 

"Xin nói như thế này người ta chấp nhận khả năng loại bỏ xúc cảm tiêu cực của mình, thậm chí bắt đầu từng bước tiến theo hướng ấy. Tuy nhiên từ những cuộc thảo luận của chúng ta, tôi cảm thấy phải có một nỗ lực ghê gớm để loại bỏ mặt tối - nghiên cứu thật nhiều, suy tư, áp dụng không ngừng những nhân tố giải độc, tu tập thiền định mạnh mẽ, và vân vân... Việc đó có thể thích hợp cho một nhà sư hay cho một người có thể dành nhiều thì giờchú tâm vào việc tu tập. Nhưng một người bình thường thì sao, có gia đìnhvân vân..., người đó có thể khôngthì giờ hay cơ hội để thực hành những kỹ thuật này mạnh? Với những người ấy phải chăng thích hợp hơn là chỉ cố gắng kiểm soát nhũng xúc cảm khổ sở của họ, học cách chấp nhận chúng, và giải quyết chúng đúng cách, hơn là loại bỏ chúng hoàn toàn? Cũng giống như các bệnh nhân có bệnh tiểu đường. Họ có thể không có cách chữa khỏi bệnh, nhưng giữ gìn việc ăn uống, uống insulin vân vân... họ có thể kiểm soát được bệnh và ngăn chặn triệu chứng và dị chứng tiêu cực của bệnh này."

"Phải, đúng là như vậy" Ngài vui vẻ trả lời."Tôi đồng ý với bạn. Dù người ta thực hiện biện pháp nào, nhỏ đến đâu chăng nữa để học cách giảm thiểu ảnh hưởng của cảm xúc tiêu cực thì điều đó rất hữu ích. Nó nhất định gíúp cho ta có đời sống hạnh phúc hơn và thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, người cư sĩthể đạt được mức độ nhận thức tinh thần cao- một số người có công ăn việc làm, có gia đình, có quan hệ tình dục với người hôn phối, vân vân... Và không chỉ như thế, nhưng còn có những người không bắt đầu rèn tập nghiêm túc cho đến cuối cuộc đời, khi họ vào khoảng 40, 50, hay có khi 80, mới có thể trở nên tinh thông"

Tôi hỏi Ngài: "Có bao giờ đích thân Ngài gặp những người mà Ngài cảm thấy họ đã đạt được trạng thái tinh thần cao này không?

"Tôi nghĩ rằng rất khó, rất khó để phán xét. Tôi nghĩ rằng những người tu tập thành thật không bao giờ khoe ra những thứ ấy". Ngài cười. 

Nhiều người phương Tây tìm đến niềm tin tôn giáo làm nguồn của hạnh phúc, nhưng đường lối giải quyết căn bản của Đức Đạt Lai Lạt Ma khác hẳn những tôn giáo Tây Phương trong đó phụ nhiều hơn vào cách lập luận và huân luyện tâm hơn là vào đức tin. Trong một số khía cạnh, lối giải quyết của Đức Đạt Lai Lạt Ma giống khoa học tâm trí, một hệ thống mà mà ta có thể áp dụng rất giống cách người ta sử dụng trong tâm lý liệu pháp. Nhưng những gì mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra còn đi xa hơn nữa. Trong khi chúng ta đã quen với khái niệm dùng kỹ thuật điều trị tâm lý như cách chữa trị cách hành vi để nhắm vào các thói xấu đặc biệt - hút thuốc, uống rượu, nổi nóng - chúng ta không quen trau dồi những thuộc tính tích cực- như tình thương, từ bi, nhẫn nại, rộng lượng làm vũ khí chống lại những cảm xúctrạng thái tinh thần tiêu cực. Phương pháp giành hạnh phúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma căn cứ vào một khái niệm cách mạng: trạng thái tinh thần tiêu cực không phải là một phần nội tại của tâm, chúng là những trở ngại nhất thời che lấp sự biểu lộ trạng thái vui sướnghạnh phúc tiềm ẩn tự nhiên 

Hầu hết các trường điều trị tâm lý truyền thống Tây Phương có khuynh hướng tập trung vào sự điều chỉnh chứng loạn thần kinh chức năng của ta chứ không nhắm vào toàn bộ quan điểm con người. Những trường này khảo sát tiểu sử cá nhân, mối quan hệ, kinh nghiệm hàng ngày (kể cả những giấc mơ và những ý nghĩ kỳ quặc), thậm chí cả mối quan hệ với bác sĩ chuyên khoa trong cố gắng giải quyết những mâu thuẫn nội tâm, những động cơ vô ý thức, và những động lực tâm lý của bệnh nhân góp phần vào khó khăn và bất hạnh của họ Mục đích là để giành được chiến lược ứng phó lành mạnh hơn, điều chỉnhcải thiện các triệu chứng chứ không trực tiếp huân luyện tâm để có hạnh phúc

Nét khác biệt nhất trong phương pháp huân luyện tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma liên quan đến khái niệm trạng thái tâm tích cực có thể thực hiện vai trò thuốc giải độc trực tiếp đối với những trạng thái tâm tiêu cực. Tìm sự so sánh lối giải quyết này với khoa học ứng xử hiện đại, có lẽ cách chữa trị bằng nhận thức là gần gũi nhất. Hình thái điều trị tâm lý này ngày càng trở nên được ưa chuộng vào những thập niên vừa qua và đã cho thấy rất hiệu nghiệm trong việc điều trị hàng loạt những vấn đề phổ biến, đặc biệtrối loạn tâm trạng như suy nhược và lo ấu. Được phát triển bởi những nhà điều trị bằng tâm lý như Bác Sĩ Albert Ellis và Bác Sĩ Aaron Beck, cách điều trị nhận thức hiện đại căn cứ vào khái niệm những xúc cảm gây rối loạn và cách ứng xử sai lầm gây ra bởi sự suy nghĩ méo mó và niềm tin phi lý. Cách điều trị nhắm vào giúp người bệnh nhận dạng quan sát, và sửa chữahệ thống những suy nghĩ bị bóp méo ấy. Những tư tưởng được uốn nắn, trong một ý nghĩa nào đó, trở thành thuốc giải độc cho những kiểu suy nghĩ bị bóp méo mà chúng là nguồn khổ đau của người bệnh. 

Thí dụ một người bị hắt hủi bởi một người khác và phản ứng với cảm giác khổ đau thái quá. Trước hết bác sĩ chuyên khoa điều trị bằng nhận thức giúp cho người ấy nhận ra dạng niềm tin không hợp lý tiềm ẩn. Thí dụ, "tôi phải phải luôn luôn được hầu hết mọi người thương yêu và bằng lòng trong suốt cuộc đời tôi, hay nếu không được điều đó thật là ghê gớm, tôi thật đáng khinh." Người chữa bệnh trình bày với người đó bằng chứng cớ chứng tỏ niềm tin không thực tế này. Mặc dầu, lối giải quyết này có vẻ là hời hợt, nhưng nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy cách điều trị nhận thứctác động Chẳng hạn trong trường hợp buồn phiền suy nhược, bác sĩ chuyên khoa điều trị bằng nhận thức lập luậntư tưởng tự chuốc lấy thất bại tiêu cực của con người tạo sơ hở cho buồn phiền suy nhược. Cũng chẳng khác gì quan niệm của người Phật Tử là tất cả những xúc cảm đau đớn bị bóp méo, người điều trị bằng nhận thức quan niệm những tư tưởng buồn phiền suy nhược tiêu cực phát sinh là những tư tưởng "về cơ bản bị bóp méo". Trong buồn phiền suy nhược, suy nghĩ có thể bị bóp méo bởi cách nhìn biến cố được ăn cả ngã về không hay phổ thông quá mức (có nghĩa nếu bạn mất việc hay không lên lớp, tự động bạn nghĩ rằng, " tôi hoàn toàn thất bại") hay chỉ chọn lựa nhận thấy một số biến cố (có nghĩa, ba điều tốt và hai điều xấu có thể xẩy ra trong một ngày, nhưng người buồn phiền quên đi điều tốt mà chỉ nhắm vào điều xấu). Cho nên chữa trị bệnh suy nhược, với sự giúp đỡ của người điều trị, bệnh nhân được khuyến khích giám sát sự bộc phát tự động của các tư tưởng tiêu cực (Thí dụ "tôi hoàn toàn vô dụng") và tích cực sửa chữa những suy nghĩ méo mó ấy bằng cách thu thập các tin tứcchứng cớ tương phản hay bác bỏ nó (như: "tôi đã làm việc nhọc nhằn để nuôi hai đứa con", "Tôi có tài năng về ca hát", " Tôi đã là người bạn tốt" " Tôi vẫn tiếp tục một công việc khó khăn, vân vân...) Những nhà nghiên cứu đã chứng minh bằng cách thay đổi lối suy nghĩ bị bóp méo bằng tin tức xác đáng, ta có thể mang lại sự thay đổi cảm nghĩ và cải thiện tâm trạng của con người

Chúng ta thay đổi cảm xúcchống lại ý nghĩ tiêu cực bằng cách áp dụng đường lối suy nghĩ khác là thực tế hỗ trợ thêm cho lập trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng ta có thể khắc phục trạng thái tinh thần tiêu cực nhờ áp dụng các thuốc giải độc hay tình trạng tinh thần tích cực tương ứng. Khi thực tế này được phối hợp với bằng chứng khoa học mới đây chúng ta có thể thay đổi cấu trúc và chức năng của bộ não bằng cách trau dồi các tư tưởng mới, thì khái niệm chúng tathể đạt hạnh phúc do huân luyện tâm dường như là một khả năng thực sư. 

CHƯƠNG 13
ĐỐI TRỊ VỚI GIẬN DỮSÂN HẬN

Nếu ta tình cờ gặp một người bị tên bắn, ta không nên mất thì giờ băn khoăn xem mũi tên từ đâu bay đến, hay đẳng cấp xã hội của người bắn, hay phân tích mũi tên được làm bằng gỗ nào, hay cách chế tạo đầu mũi tên. Tốt hơn là ta phải nhắm ngay vào rút mũi tên ra. --Đức Phật Thích Ca Mâu Ni 

Nay chúng ta quay về một số "mũi tên", những trạng thái tiêu cực của tâm phá hoại hạnh phúc của chúng ta, và những thuốc giải độc tương ứng của chúng. Tất cả trạng thái tinh thần tiêu cực gây chướng ngại cho hạnh phúc của chúng ta, nhưng chúng ta lại bắt đầu bằng giận dữ, dường như đó là một trong những chướng ngại lớn nhất. Giận dữ được nhà hiền triết học Stoic (Chịu đựng) Seneca mô tả là một cảm xúc ghê tởm và điên cuồng nhất trong tất cả các cảm xúc". Hậu quả phá hoại của giận dữsân hận đã được chứng minh bằng tài liệu bởi các công cuộc nghiên cứu mới đây. Đương nhiên ta không cần bằng chứng khoa học để nhận biết những cảm xúc này có thể làm lu mờ sự suy xét của chúng ta nhu thế nào, gây ra cảm giác khó chịu cùng cực hay tàn phá những mối quan hệ cá nhân. Kinh nghiệm cá nhân có thể nói cho chúng ta biết điều đó. Nhưng những năm gần đây, sự chứng minh bằng tài liệu những hậu quả thể chất tai hại của giận dữthái độ thù địch ngày càng phổ biến. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy những cảm xúc này là nguyên nhân đáng kể của bệnh tật và chết non. Những nhà nghiên cứu như Bác Sĩ Redford Williams của Trường Đại Học Duke và Bác Sĩ Robert Sapolsky của Trường Đại Học Stanford đã tiến hành việc nghiên cứu chứng minh giận dữ, nổi nóng, và thù địch đặc biệt làm hại hệ thống tim mạch. Ngày càng có quá nhiều bằng chứng về những hậu quả tai hại của thái độ thù địch, thực ra, ngày nay nó được coi là một nhân tố nguy hiểm chính của bệnh tim, ít nhất cũng ngang bằng hay lớn hơn những nhân tố truyền thống được công nhận như chất cholesterol cao hay áp huyết cao. 

Cho nên, một khi thừa nhận những hậu quả tai hại của giận dữsân hận, câu hỏi kế tiếp là: Làm sao khắc phục chúng?

Vào ngày đầu tiên làm chuyên viên tâm lý cho một cơ sở điều trị, tôi đang được chỉ đến văn phòng mới của tôi bởi một nhân viên hành chính thì tôi nghe thấy tiếng kêu thét khủng khiếp vang lại từ cuối tòa nhà ... 

"Tôi giận lắm" 

"Nói to nữa lên"

"TÔI GIẬN LẮM" 

"NÓI TO NỮA LÊN, CHỈ CHO TÔI. ĐỂ TÔI XEM" 

"TÔI GIẬN LẮM! TÔI GIẬN LẮM!! TÔI GHÉT ÔNG!!! TÔI GHÉT ÔNG!!!!"

Quả là thực đáng sợ. Tôi lưu ý nhân viên này rằng hình như có điều gì như thể là nguy cấp cần phải được lưu ý tới ngay. 

"Xin đừng lo lắng gì về việc ấy " cô ta cười. Vừa mới có một buổi điều trị cho một nhóm người ở cuối tòa nhà - giúp cho bệnh nhân tiếp xúc với cơn giận dữ của mình".

Vào cuối ngày hôm đó tôi gặp riêng bệnh nhân này. Bà ta có vẻ mệt lử.

"Tôi cảm thấy dịu đi rất nhiều" bà ta nói, " buổi điều trị thực tốt. Tôi cảm thấy hồ như tôi đã trút hết cả nỗi giận dữ của tôi ra ngoài".

Tuy vậy vào buổi điều trị kế tiếp ngày hôm sau, bà ta thuật lại " Tôi chắc rằng rút cuộc tôi chưa trút được hết tất cả giận dữ của tôi ra ngoài. Ngay khi tôi ra về ngày hôm qua, khi vừa ra xe khỏi bãi đậu xe thì một thằng xuẩn ngốc nào đó chặn đường tôi và tôi hết sức giận dữ. Và tôi không ngớt nguyền rủa thầm thằng xuẩn ngốc này suốt dọc đường trở về nhà. Tôi nghĩ rằng tôi cần phải có một vài buổi điều trị giận dữ nữa để có thể trút hết nó ra ngoài."

Bắt tay vào chinh phục giận dữsân hận, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu bằng cách điều tra bản chất của các xúc cảm phá hoại ấy. Ngài giải thích, "Nói chung, có nhiều loại cảm xúc tiêu cực hay khổ sở khác nhau, như tự phụ, cao ngạo, ganh ghét, tham dục, tham lam, hẹp hòi vân vân... Nhưng ngoài những loại ấy ra, giận dữsân hận được coi là tai họa lớn nhất vì chúng là những chướng ngại lớn nhất cho việc phát triển từ bivị tha, và chúng phá hoại đức hạnh và sự tĩnh lặng của tâm. 

"Suy xét về giận dữ, có thể có hai loại. Một loại giận dữ có thể là tích cực. Có thể chủ yếu là do động cơ thúc đẩy của người ta. Có một số giận dữ do từ bi hay ý thức trách nhiệm thúc đẩy. Ở nơi giận dữ được thúc đẩy bởi từ bi, nó có thể được dùng làm sự thúc đẩy hay chất xúc tác cho một hành động tích cực. Trong những hoàn cảnh ấy, cảm xúc của con người giống như giận dữ có thể hoạt động như một sức mạnh dẫn đến hành động mau lẹ. Hồ như nó thể tạo ra nghị lực làm cho người ta có thể hành động nhanh chóng và dứt khoát. Nó có thể là một ynhân tố thúc đẩy mạnh mẽ. Cho nên, đôi khi loại giận dữ này có thể là tích cực. Tuy nhiên quá thông thường, là dù loại giận dữ này hồ như có thể hoạt động là vật bảo vệ và mang lại thêm sinh lực, thì sinh lực ấy cũng là mù quáng, cho nên cũng không chắc chắn nó sẽ trở thành xấy dựng hay phá hoại lúc chung cuộc

"Cho nên dù trong những trường hợp hiếm hoi, một số loại giận dữ có thể là tích cực, nói chung, giận dữ dẫn đến cảm nghĩ xấu và sân hận. Và trong chừng mực liên quan đến, nó chẳng bao giờ là tích cực cả. Nó không có lợi ích gì cả. Nó bao giờ cũng hoàn toàntiêu cực

"Chúng ta không thể khắc phục giận dữsân hận chỉ bằng cách nén chúng xuống. Chúng ta cần tích cực trau dồi những thứ giải độc cho sân hận như nhẫn nại và khoan dung. Theo kiểu mà ta đã nói trước đây, để có thể trau dồi thành công nhẫn nại và khoan dung, bạn cần phải tạo ra lòng nhiệt tình, một sự ham muốn mạnh mẽ tìm kiếm nó. Lòng nhiệt tình của bạn càng mạnh thì khả năng chịu đựng những khó khăn gặp phải trong quá trình này càng lớn. Khi bạn dân thân 

vào tu tập nhẫn nại và khoan dung, trong thực tế, cái đang xẩy ra là bạn dân thân vào cuộc chiến với giận dữsân hận. Vì là trong tình trạng chiến đấu, bạn tìm chiến thắng, nhưng bạn cũng phải chuẩn bị khả năng bị thua trận. Cho nên khi bạn lấm trận, bạn không nên bỏ qua thực tế là trong tiến trình này bạn sẽ đương đầu đầu với nhiều vấn đề. Bạn phải có khả năng chịu đựng gian khổ. Người chiến thắng được giận dữsân hận qua tiến trình cam go như vậy là một anh hùng thực sự.

"Chính bằng điều này trong tâm, chúng ta phát sinh lòng nhiệt tình mạnh mẽ. Nhiệt tình do học tập và suy ngẫm về những tác dụng của khoan dung, nhẫn nại., và sự tác hại hay hậu quả tiêu cực của giận dữsân hận. Và chính cái hành động ấy, chính trong cái nhận thức được, sẽ tạo được sự lôi cuốn hướng về cảm nghĩ khoan dung và nhẫn nại và bạn cảm thấy thận trọng hơn và đề phòng những ý nghĩ giận hờn và thù ghét. Thường thường, chúng ta không mấy bận tâm về giận dữ hay sân hận, cho nên nó đến bất chợt. Nhưng khi chúng ta phát triển một thái độ thận trọng đối với những cảm xúc này, thái độ miễn cưỡng tự nó hoạt động nhự một biện pháp phòng ngừa chống lại giận dữsân hận

"Những tai hại của sân hận rất dễ thấy rõ ràng và trực tiếp. Thí dụ, khi một ý nghĩ sân hận mạnh mẽ phát sinh trong con người bạn, chính vào lúc ấyhoàn toàn tràn ngập và phá hoại sự an tĩnh trong tâm bạn, sự nhanh trí của bạn hoàn toàn mất hẳn. Khi giận dữsân hận dữ dội nổi lên, nó tàn phá phần tốt nhất bộ não của bạn, phần này chính là khả năng phán xét giữa đúng và sai, và hậu quả trước mắt hay dài hạn về những hành động của bạn. Sức phán xét của bạn trở nên hoàn toàn bế tắc, nó không còn hoạt động được. Hầu như như bạn trở thành mất trí. Cho nên giận dữsân hận này có khuynh hướng ném bạn vào tình trạng bối rối làm cho những vấn đề và khó khăn của bạn tệ hại hơn. 

"Ngay cả về mặt thể chất, sân hận dẫn đến sự biến đổi thể chất rất xấu và đáng ghét cho một cá nhân. Chính vào lúc cảm giác giận dữsân hận phát sinh, dù người ấy cố gắng giả cách hay làm điệu bộ có tư cách thế nào đi nữa, nhưng rõ ràng mặt của người đó trông nhăn nhó và xấu xí. Có một sự biểu lộ thật khó chịu, và người ấy toát ra sự rung cảm rất thù nghịch. Những người khác có thể cảm thấy điều đó. Dường như họ có thể cảm thấy hơi toát ra từ thân thể người ấy. Đến nỗi không những con người có thể cảm giác thấy, cả đến thú vật, chó mèo cũng cố tránh người đó vào lúc ấy. Hơn nữa k hi một người chất chứa những ý nghĩ sân hận, những tư tưởng này có khuynh hướng góp nhặt vào trong tâm người ấy, và có thể gây ra những vấn đề như ăn mất ngon, mất ngủ, và chắc chắn làm cho người ấy cảm thấy căng thẳng và bực dọc hơn. 

Vì những lý do như trên đây, sân hận được so sánh như một kẻ thù. Kẻ thù trong bên trong này, kẻ thù trong nội tâm này, không có chức năng nào khác ngoài việc gây tổn hại. Nó thật sự là kẻ thù của chúng ta, kẻ thù đích thật. Nó không có nhiệm vụ nào khác hơn ngoài việc chỉ để phá hoại chúng ta, cả trước mắt lẫn lâu dài

"Nó rất khác với một kẻ thù bình thường. Mặc dầu là một kẻ thù bình thường, người mà ta coi như kẻ thù, có thể có những hành động có hại cho chúng ta, ít nhất người ấy cũng có những chức năng khác, như người đó cũng phải ăn, phải ngủ. Cho nên người đó có nhiều nhiệm vụ khác và không thể bỏ 24 giờ một ngày trong cuộc sống vào kế hoạch phá hoại chúng ta. Mặt khác, sân hận không có nhiệm vụ nào khác, không có mục đích nào khác, ngoài việc phá hoại chúng ta. Cho nên nhận thức được sự thật này, chúng ta phải kiên quyết không bao giờ để cho kẻ địch có cơ hội sân hận phát sinh trong chúng ta."

Đối trị với giận dữ, Ngài nghĩ gì về một vài phương pháp điều trị tâm lý của người Phương Tây, phương pháp nào khuyến khích việc bộc lộ giận dữ của người ta? 

"Nơi đây, tôi nghĩ chúng ta phải hiểu rằng có thể có những tình trạng khác nhau" Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích. Trong một số trường hợp, người ta nuôi dưỡng những cảm giác mạnh mẽ về giận dữđau đớn căn cứ vào điều gì đó đã gây cho họ trong quá khứ, một sự lạm dụng hay bất cứ điều gì và cảm giác này cứ bị nén lại trong lòng. Có một thành ngữ Tây Tạng nói rằng nếu có bệnh gì trong cái vỏ ốc, bạn có thể làm sạch bằng cách thổi nó đi. Nói một cách khác, có thứ gì cản trở trong vỏ ốc, hày thổi nó đi, và nó sẽ sạch. Cho nên tương tự như vậy, có thể tưởng tượng một tình trạng do nén lại một cảm xúc nào đó hay mộtgiận dữ nào đó, thì tốt hơn hãy giải thoát nó và bộc lộ nó ra.

"Tuy nhiên, tôi tin rằng nói chung, giận dữsân hận là những loại cảm xúc nếu bạn bỏ mặc không kiềm chế và không lưu ý, có khuynh hướng trầm trọng thêm và cứ tăng lên. Nếu bạn hoàn toàn ngày càng để chúng xẩy ra và cứ bộc lộ chúng, điều này thường làm cho chúng phát triển chứ không giảm bớt Cho nên tôi có cảm thấy là bạn càng áp dụng một thái độ thận trọngtích cực cố giảm bớt mức độ sức mạnh của chúng càng tốt "

"Vì thế nếu bạn cảm thấy bộc lộ hay giải thoát giận dữ không phải là câu trả lời, thế thì điều gì là câu trả lời?" tôi hỏi Ngài. 

"Trước hết cảm giác giận dữsân hận phát sinh từ cái tâm lo phiền bởi bất toại nguyệnbất mãn. Cho nên bạn cần phải chuẩn bị trước bằng cách không ngừng cố gắng thực hiện việc xấy dựng mãn nguyện nội tâm và trau dồi lòng tốttừ bi. Điều này mang lại sự bình tĩnh nào đó cho tâm vì thế giúp ngăn chặn giận dữ phát sinh ngay từ lúc đầu. Và khi một tình thế phát sinh làm cho bạn giận dữ, bạn phải trực tiếp đối đầu với giận dữ và phân tích nó. Điều tra xem những nhân tố nào đã gây ra trường hợp giận dữsân hận đặc biệt này. Rồi phân tích xa hơn nữa, xem điều đó có phải là một phản ứng thích đáng không và nhất là nó có tính chất xấy dựng hay phá hoại. Và bạn cố gắng sử dụng một số kỷ luật bên trong nào đó và kiềm chế, tích cực chiến đấu với nó bằng việc áp dụng các loại giải độc để chống lại những cảm xúc tiêu cực bằng những ý nghĩ kiên nhẫn và khoan dung"

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút rồi với tính thực dụng thường lệ. Ngài thêm, " Đương nhiên khi cố gắng khắc phục giận dữsân hận ở giai đoạn đầu bạn vẫn còn thấy những cảm xúc tiêu cực. Nhưng có nhiều mức độ khác nhau, nếu là mức độ giận dữ vừa phải, thì vào lúc đó bạn có thể cố gắng trực tiếp đối đầu và chiến đấu với nó. Tuy nhiên nếu là một cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ đang bùng lên, thì vào lúc đó, có lẽ là rất khó thách thức hay đối đầu với nó. Nếu đúng là như vậy, thì vào lúc đó, tốt nhất là cố quên nó đi. Hãy nghĩ đến chuyện khác. Một khi tâm bạn bình tĩnh lại một chút, bạn có thể phân tách, bạn có thể lý luận." Nói một cách khác, tôi ngẫm nghĩ, Ngài đang nói, "Cứ thong thả".

Ngài tiếp tục, "Trong việc tìm cách loại bỏ giận dữsân hận, ý định trau dồi kiên nhẫnkhoan dung rất cần thiết. Bạn có thể nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của kiên nhẫnkhoan dung trong câu sau: Trong chừng mực liên quan đến những hậu quả phá hoại của ý nghĩ giận dữsân hận liên hệ, bạn không được bảo vệ trước những điều đó bằng của cải. Dù cho bạn là triệu phú, bạn vẫn phải chịu những hậu quả phá hoại của giận dữsân hận. Giáo dục không thôi cũng chẳng bảo đảm cho bạn sẽ được bảo vệ trước những hậu quả ấy. Tương tự như thế, luật pháp cũng không cho bạn sự bảo đảm hay che chở như vậy. Thậm chí cả vũ khí hạt nhân, dù hệ thống phòng thủ có tinh vi đến thế nào đi nữa, cũng không thể cho bạn sự che chở hay phòng thủ trước những hậu quả ấy. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại một chút để lấy đà, rồi với một giọng chắc nịch, rành rọt, Ngài kết luận, " Nhân tố duy nhất cho bạn nơi nương tựa hay che chở trước những hậu quả phá hoại của giận dữsân hậntu tập khoan dung và kiên nhẫn". 

Một lần nũa, sự thông thái truyền thống của Đức Đạt Lai Lạt Ma hoàn toàn trùng hợp với dữ kiện khoa học. Tiến Sĩ Dolf Zillmann của Trường Đại Học Alabama đã tiến hành các cuộc thí nghiệm cho thấy những ý nghĩ giận dữ hay tạo ra tình trạng khuấy động sinh lý làm cho chúng ta dễ giận dữ hơn. Giận dữ xấy dựng trên giận dữ. và khi trạng thái khuấy động tăng lên, chúng ta dễ dàng bị kích hoạt bởi tác nhân - kích thích trong môi-trường gây-giận dữ. 

Nếu không được kiềm chế, giận dữ có khuynh hướng leo thang. Cho nên, làm sao để xả giận? Như Đức Đạt Lai Lạt Ma góp ý, trút cơn giận thịnh nộsân hậnlợi ích rất giới hạn. Biểu lộ giận dữ để trị bệnh là cách giải thoát xúc cảm mạnh dường như bắt nguồn từ lý thuyết về xúc cảm của Freud, mà ông thấy nó hoạt động theo kiểu thủy lực : Khi áp lực tăng, nó phải giải thoát ra. Khái niệm loại bỏ giận dữ bằng cách giải thoát nó có một sự hấp dẫn khá ân tượng và ở mức đô nào đó thấm chí có vẻ như trò đùa nhưng vấn đề này là phương pháp hoàn toàn không hữu hiệu. Nhiều cuộc nghiên cứu trong bốn thập niên vừa qua đã không ngưng cho thấy biểu lộ giận dữ bằng lời nóithể chất không xua tan nó được chút gì mà còn làm cho sự việc tệ hại hơn. Tiến Sĩ Aaron Siegman, nhà tâm lý học và nhà nghiên cứu về giận dữ của Trường Đại Học Maryland, tin rằng, chẳng hạn, chính kiểu biểu lộ lập đi lập lại sự giận dữ và cơn thịnh nộ gây ra hệ thống khuấy động bên trong và phản ứng sinh hóa gây tai hại cho mạch máu của chúng ta

Trong khi việc trút giận rõ ràng không phải là câu trả lời, cũng đừng bỏ qua cơn giận của mình hay làm ra vẻ không giận dữ. Như chúng ta đã thảo luận ở Phần III, cố né tránh những vấn đề của mình không làm cho chúng nhạt phai. Vậy thì, lối giải quyết nào tốt nhất? Đáng chú ý là có sự nhất trí trong số nhà nghiên cứu giận dữ hiện đại như Tiến sĩ Zillman và Williams là những phương pháp tương tự phương pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tỏ ra hữu hiệu nhất. Vì toàn bộ tâm trạng căng thẳng hạ thấp mức gây giận dữ, bước đầuđề phòng: trau dồi sự mãn nguyện nội tâm và làm cho tâm bình tĩnh hơn, như khuyên nhủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhất định có ích. Và khi giận dữ nẩy sinh, sự nghiên cứu cho thấy tích cực chống lại, phân tích hợp lý, và đánh giá lại những ý nghĩ gây giận dữ có thể xua tan nó. Có bằng chứng đã được thử nghiệm là những kỹ thuật mà chúng ta bàn thảo trước đây, như thay đổi cách nhìn hay nhìn tình hình dưới những góc độ khác, cũng có thể rất hữu hiệu. Đương nhiên những cách này thường dễ thực hiện hơn ở mức độ giận dữ thấp hoặc vừa phải, cho nên thực hành sự can thiệp sớm những ý nghĩ giận dữsân hận trước khi chúng leo thang là một nhân tố quan trọng. Vì tầm quan trọng to lớn của chúng trong việc khắc phục giận dữsân hận, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói chi tiết về ý nghĩagiá trị của nhẫn nại và khoan dung

Trong kinh nghiệm sống hàng ngày của chúng ta, khoan dung và nhẫn nại có những lợi ích to lớn. Chẳng hạn, phát triển chúng cho phép chúng ta có sự chống đỡduy trì sự nhanh trí của chúng ta. Cho nên nếu một cá nhân có khả năng khoan dung và nhẫn nại, thì bất chấp sống trong môi trường rất điên cuồngcăng thẳng, miễn là người đó có khoan dung và nhẫn nại thì sự bình tĩnh và an của tâm người ấy sẽ không bị xáo trộn

"Một lợi ích khác khi phản ứng trước những tình thế khó khăn bằng kiên nhẫn chứ không phải giận dữbảo vệ mình trước những hậu quả rắc rối tiềm tàng có thể xẩy ra nếu bạn phản ứng bằng giận dữ. Nếu bạn phản ứng tình thế bằng giận dữ hay sân hận, không những nó không che chở trước tổn thương hay tổn hại đã gây ra cho bạn - tổn thươngtổn hại đã xẩy ra rồi- mà ngoài ra còn gây ra thêm lý do cho sự khổ đau của bạn trong tương lai. Tuy nhiên nếu bạn phản ứng trước sự tổn thương bằng nhẫn nại và khoan dung, thì dù bạn có phải đối đầu tạm thời với khó chịu và đau đớn, nhưng bạn vẫn tránh được những hậu quả nguy hiểm tiềm tàng về lâu dài. Bằng cách hy sinh những điều nho nhỏ, bằng cách chịu đựng những khó khăn nhỏ hay gian khổ, bạn có thể bỏ được những điều đã kinh qua hay khổ đau có thể rất to lớn hơn trong tương lai. Để minh họa, nếu một người tù đã bị kết án có thể cứu đời mình bằng cách hy sinh một cánh tay làm hình phạt, phải chăng người đó không cảm thấy biết ơn vì cơ hội này? Bằng cách chịu đựng đau đớn và khổ đau có một cánh tay bị chặt, người đó sẽ cứu được mình khỏi chết còn đau khổ hơn nhiều

Tôi nhận xét, "Với đầu óc người Phương Tây, nhẫn nại và khoan dung chắc chắn được coi là đức hạnh, nhưng khi bạn trực tiếp bị phiền muộn bởi người khác, khi một người nào đó chủ động hại bạn, phản ứng bằng 'nhẫn nại và khoan dung' dường như là có hương vị nhu nhược thụ động" 

Lắc đầu không đồng ý, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, "Vì nhẫn nại hay khoan dung bắt nguồn từ một khả năng kiên quyếtvững vàng, không phải bị quá áp đảo trước tình hình trái ngược hay hoàn cảnh mà ta phải đối đầu, ta không nên coi khoan dung hay nhẫn nại là dấu hiệu nhu nhược nhượng bộ, đúng hơn là một dấu hiệu của sức mạnh, bắt nguồn từ khả năng sâu xa kiên quyết. Đối phó tình thế căng thẳng bằng nhẫn nại và khoan dung thay vì phản ứng bằng giận dữsân hận đòi hỏi đến sự kiềm chế tích cực mà nó là sản phẩm của tâm kỷ luật tự giác mạnh mẽ. 

"Đương nhiên, bàn luận về khái niệm nhẫn nại như trong hầu hết mọi vấn đề, có thể có những loại nhẫn nại tích cực hay tiêu cực .Nôn nóng không phải lúc nào cũng xấu. Chẳng hạn, nó có thể giúp bạn làm ngay cho xong việc. Ngay cả những việc lặt vặt hàng ngày như dọn dẹp căn phòng của mình, nếu bạn có quá nhiều kiên nhẫn, bạn sẽ quá chậm trễ và chỉ làm được ít việc. Hoặc, nôn nóng để giành được hòa bình thế giới - điều này chắc chắntích cực. Nhưng trong những tình thế khó khăn và thử thách, kiên nhẫn gíúp duy trì ý chí và trợ giúp bạn. 

Càng trở nên sinh động khi Ngài đi sâu vào việc nghiên cứu ý nghĩa của kiên nhẫn, Ngài thêm vào, "Tôi nghĩ rằng có sự liên hệ rất mật thiết giữa khiêm nhường và kiên nhẫn. Khiêm nhường đòi hỏi đến khả năng có một lập trường đương đầu, có khả năng trả đũa nếu bạn muốn, nhưng chủ ý quyết định không làm như vậy. Điều đó có thể gọi là sự khiêm nhường chân chính. Tôi nghĩ là khoan dung thực sự hay kiên nhẫn có một thành tố hay thành phần của kỷ luật tự giáckiềm chế - hiểu rõ điều đó nên bạn có thể hành động cách khác dù bạn có thể áp dụng cách giải quyết hung hăng hơn, nhưng quyết định không làm như vậy. Mặt khác bị bắt buộc áp dụng một phản ứng thụ động nào đó do cảm giác không tự lo liệu được hay bất lực - điều đó tôi không thể gọi là khiêm nhường đích thực. Hồ như điều đó có thể là loại nhu mì, chứ không phải là khoan dung chân chính

"Bây giờ khi chúng ta nói về tính cách phát triển lòng khoan dung với những kẽ hãm hại ta, chúng ta không nên hiểu nhầm điều đó có nghĩa là chúng ta chỉ ngoan ngoãn chấp nhận bất cứ điều gì đã được làm chống lại ta", Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngưng một chút rồi cười." Đúng hơn là, nếu cần thiết, điều tốt nhất, cách khôn ngoan nhất có lẽ là bỏ đi- xa chạy cao bay!"

"Bạn thường không thể tránh khỏi bị hại bằng cách chạy trốn"

Ngài đáp lại, "Đúng, điều đó đúng, đôi khi bạn có thể chạm trán những tình huống cần có biện pháp đối phó mạnh mẽ. Tuy nhiên tôi tin rằng, bạn có thể có một lập trường mạnh mẽ và có cả biện pháp phản ứng mạnh vì cảm nghĩ từ bi, hoặc ý thức quan tâm cho người khác chứ không phải vì giận dữ. Một trong những lý do tại sao cần phải áp dung biện pháp phản ứng rất mạnh mẽ chống lại người nào đó là nếu bạn bỏ qua - bất cứ cái tai hại hay tội ác nào đang được thực hiện chống lại bạn- rồi thì có một nguy cơ là người ấy quen theo cung cách tiêu cực, trên thực tế, sẽ là nguyên nhân sa sút cho người ấy và rút cục là rất có thể tổn hại cho chính người ấy. Cho nên, biện pháp phản ứng mạnh rất cần thiết, nhưng với tư tưởng ấy trong tâm trí, bạn có thể làm điều đó do từ bilo lắng cho người ấy. Thí dụ trong chừng mực liên quan đến việc đối phó với Trung Hoa dù cho có khả năng một số cảm giác sân hận nào đó phát sinh, chúng tôi vẫn chú ý kiềm chế mình và cố gắng giảm bớt điều đó; chúng tôi cố phát triển một cách có ý thức, cảm nghĩ từ bi đối với Trung Hoa. Và tôi nghĩ rằng những biện pháp đối phó này cuối cùng sẽ hữu hiệu hơn nếu không có cảm nghĩ giận dữsân hận

"Bây giờ, chúng ta khảo sát phương pháp phát triển nhẫn nại và khoan dungbuông bỏ giận dữsân hận, những phương pháp như dùng lập luận để phân tích tình hình, áp dụng cách nhìn rộng lớn hơn, và nhìn tình hình bằng nhiều góc độ khác nhau. Kết quả cuối cùng hay một sản phẩm của kiên nhẫnkhoan dung, là sự tha thứ. Khi chúng ta thực sự kiên nhẫnkhoan dung, thì sự tha thứ tự nhiên đến. 

"Mặc dù chúng ta có thể đã kinh qua nhiều biến cố tiêu cực trong quá khứ, với sự phát triển kiên nhẫnkhoan dung, chúng ta có thể buông bỏ cảm giác giận dữsân hận. Nếu bạn phân tích tình hình, bạn sẽ hiểu rằng quá khứquá khứ, cho nên chẳng ích gì cứ tiếp tục cảm thấy giận dữ hay sân hận khi nó không thay đổi tình hình mà chỉ gây nên rối rắm trong tâm và tiếp tục gây ra bất hạnh. Đương nhiên, bạn vẫn có thể nhớ đến những biến cố. Quên và tha thứ là hai điều khác nhau. Không có gì sai khi chỉ nhớ đến những biến cố tiêu cực, nếu bạn có một đầu óc nhậy bén, bạn sẽ lúc nào cũng nhớ " Ngài cười, " Tôi nghĩ Đức Phật nhớ đến tất cả mọi thứ. Nhưng với sự phát triển kiên nhẫnkhoan dung, nó có thể buông bỏ các cảm nghĩ tiêu cực liên tưởng với các biến chuyển ". 

THIỀN ĐỊNH VỀ GIẬN DỮ 

Trong nhiều cuộc thảo luận, phương pháp đầu tiên của Đức Đạt Lai Lạt Ma là khắc phục giận dữsân hận đòi hỏi đến việc sử dụng lý luận và phân tích để điều tra nghiên cứu những nguyên nhân của giận dữ, chiến đấu chống lại tình trạng tinh thần tai hại này nhờ sự hiểu biết. Trong một ý nghĩa nào đó, cách giải quyết này có thể được coi như sử dụng sự hợp lý để vô hiệu hóa giận dữ. và sân hận, trau dồi thuốc giải độc kiên nhẫnkhoan dung. Nhưng đó không phải là chỉ là kỹ thuật duy nhất của Ngài. Trong những buổi nói chuyện với công chúng, Ngài có bổ sung cuộc thảo luận của Ngài bằng cách trình bày hai cách thiền đơn giản nhưng hữu hiệu để khắc phục giận dữ

Thiền Định Về Giận Dữ - Bài Tập 1 

"Chúng ta hãy tưởng tượng một cảnh trong đó một người mà bạn biết rõ, một người rất gần gũi hay thân cận với bạn, đang ở trong tình trạng nổi nóng. Bạn có thể tưởng tượng nó đang xẩy ra hoặc trong mối quan hệ chua cay, hoặc người đó đang trong tình trạng rối loạn. Người đó nóng giận đến nỗi mất hết tinh thần bình tĩnh, gây ra những rung cảm rất tiêu cực, thậm chí đi đến mức đánh đập mình hay đập phá đồ vật. "Rồi, hãy suy ngẫm về những hậu quả tức khắc về cơn thịnh nộ của người ấy. Bạn sẽ thấy sự biến đổi thể chất đang xảy ra đến cho người ấy. Người mà bạn cảm thấy gần gũi với bạn, người mà bạn thích, người mà trước đây bạn rất vừa ý, thì nay trở thành xấu xí, thậm chí nói về bề ngoài. Lý do tại sao bạn nên quán tưởng điều xẩy ra cho người khác là vì nhìn thấy lỗi của người khác dễ hơn thấy lỗi của chính mình. Cho nên, dùng trí tưởng tượng của bạn, hãy hành thiền và quán tưởng (hình dung, tưởng tượng) một vài phút. 

"Vào lúc cuối cùng khi quán tưởng, hãy phân tích tình hìnhliên hệ những hoàn cảnh ấy với kinh nghiệm riêng của chính bạn. Hãy hình dung chính bạn đã ở trong tình trạng ấy nhiều lần. Hãy kiên quyết là tôi sẽ không bao giờ để mình rơi vào ảnh hưởng của cơn giận dữ và sân hận dữ dội như vậy, vì lẽ nếu tôi làm như vậy, tôi sẽ cũng ở trong vị thế như vậy. Tôi cũng sẽ chịu tất cả những hậu quả ấy, mất an lạc nội tâm, mất bình tĩnh, phô bày thể diện xấu xí vân vân... Cho nên một khi bạn có quyết định đó, vào những phút cuối cùng của buổi thiền tập, hãy tập trung tâm bạn vào kết luận ấy, không cần phải lý giải thêm nữa, đơn giảnđể tâm bạn tiếp tục quyết tâm không để rơi vào ảnh hưởng của giận dữ và sân hận".

Thiền Định Về Giận Dữ - Bài Tập 2

Hãy thiền tập nữa bằng cách sử dụng quán tưởng. Bắt đầu quán tưởng đến một người mà bạn không thích, một người quấy rầy bạn, gây nhiều khó khăn cho bạn hoặc làm bạn bực mình. Rồi tưởng tượng một cảnh người ấy chọc tức bạn, hay làm việc gì đó tân công hay quấy nhiễu bạn. Và trong tưởng tượng, khi bạn quán tưởng chuyện này, hãy để phản úng tự nhiên của bạn xẩy ra, hãy để nó trôi chảy tự nhiên. Rồi xem bạn cảm thấy ra sao, hãy xem nó có khiến nhịp tim của bạn tăng lên không, vân vân...Quan sát xem bạn thoải mái hay không thoải mái, hãy xem liệu bạn có tức khắc bình tâm nhiều hơn không hay liệu bạn có phát triển một cảm giác khó chịu tinh thần không. Bạn hãy tự phán xét, điều tra. Như vậy trong vài phút, có lẽ ba đến bốn phút, phán xét, và thử nghiệm. Và rồi vào lúc cuối của cuộc điều tra, nếu bạn khám phá thấy, "Đúng, không ích gì để sự cáu kỉnh đó phát triển. Tức khắc tâm tôi mất an lạc và nói với mình: -Trong tương lai, tôi không bao giờ làm như thế nữa." Hãy phát triển sự quyết tâm này. Cuối cùng, vào những phút cuối cùng của bài tập, hãy tập trung tâm bạn vào sự kết luận hay quyết tâm ấy. Như thế là thiền định". 

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng giây lâu, rồi nhìn chung quanh những học sinh thành thật trong phòng đang sửa soạn thiền tập, Ngài cười và nói thêm, "Tôi nghĩ nếu tôi có năng lực nhận thức, khả năng, hay mẫn cảm rõ rệt, có thể đọc được ý nghĩ người khác, thì nơi đây phải là một cảnh tượng tuyệt vời? "

Tiếng cười rì rầm trong số thính giả nhanh chóng tắt biến và những thính giả bắt đầu cuộc thiền tập, bắt đầu công việc nghiêm túc chiến đấu với giận dữ

CHƯƠNG 14
ĐỐI TRỊ VỚI LO ÂUXÂY DỰNG LÒNG TỰ TRỌNG

Người ta đánh giá rằng trong một đời người, ít nhất một phần tư người Mỹ bị suy nhược bởi lo ấu hay lo lắng đủ nghiêm trọng theo tiêu chuẩn chẩn bệnh y tế về chứng lo ấu. Nhưng ngay cả những người chưa bao giờ bị chứng bệnh lo ấu hay tình trạng bất lực trước lo ấu vào lúc này hay lúc khác, sẽ trải qua nhiều mức độ phiền muộn và lo ấu thái quá mà không đáp ứng được mục đích hữu ích nào cả và chẳng tác dụng gì cả ngoài việc xói mòn hạnh phúcngăn cản khả năng đạt mục tiêu

Bộ não con người được trang bị với một hệ thống phức tạp dành để ghi nhận những cảm xúc sợ sệt và lo lắng. Hệ thống này đáp ứng một chức năng quan trọng - nó huy động chúng ta phản ứng với nguy hiểm bằng cách phát động hàng loạt những phản ứng sinh lýsinh hóa. Khía cạnh thích ứng cho lo lắng là làm cho chúng ta biết trước nguy hiểm và có hành động phòng ngừa. Cho nên, một số loại sợ hãi, và mức lo ấu nào đó có thể là lành mạnh. Tuy nhiên, cảm xúc sợ hãi và lo ậu có thể dai dẳng và thậm chí leo thang khi không có đe dọa đích thực, và khi những cảm xúc này phát triển không cân xứng với bất cứ nguy hiểm thực sự nào, chúng trở thành thích ứng sai. Lo ấu và lo lắng thái quá giống như giận dữsân hận có thể có những tác động tàn phá đến tâm và thân, trở thành nguồn khổ đau nhiều về xúc cảm và cả đến bệnh về thể chất

Về mặt tinh thần lo ấu kinh niên có thể làmsuy yếu phán xét, tăng tính dễ nổi cáu, và cản trở toàn bộ tính hiệu quả của ta. Nó cũng dẫn đến những vấn đề về thể chất gồm có giảm chức năng miễn dịch, bệnh tim, rối loạn ruột dạ dày, mệt mỏi, cơ bắp căng thẳngđau đớn. Những rối loạn của lo ấu chẳng hạn, cho thấy đã gây còi cọc cho sự phát triển của các thiếu nữ.. 

Trong việc tìm các chiến lược đối trị với lo ấu, trước hết chúng ta phải công nhận rằng như Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ vạch ra, có nhiều nhân tố góp phần làm tăng thêm sự lo ấu. Trong một vài trường hợp, có thể là một thành tố sinh học mạnh mẽ. Một số người dễ bị thương tổn thần kinh khi trải qua trạng thái lo nghĩ và lo ấu. Các nhà khoa học gia mới khám phá ra, "gien" (di truyền) liên quan đến những người hay lo lắngsuy nghĩ tiêu cực. Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp về độc tố lo lắng đều do nguyên nhân di truyền, mà hầu như chắc chắn là học tập và tình huống cũng đóng một vai trò lớn trong nguyên nhân gây bệnh. 

Nhưng dù cho sự lo ấu của chúng ta chủ yếu là bẩm sinh thể chất hay tâm lý đi nữa, thì tin vui là chúng ta vẫn có cách để chữa trị. Trong những trường hợp lo ấu trầm trọng, thuốc men có thể là một phần hữu dụng trong chế độ điều trị. Nhưng hầu hết trong chúng ta phiền muộn bởi lo nghĩ và lo ấu dai dẳng hàng ngày sẽ không cần can thiệp bằng thuốc. Những chuyên viên về điều trị lo ấu nhận thấy phương pháp giải quyết đa diện là tốt nhất. Trước hết nó gồm có việc loại bỏ việc xem tình trạng sức khỏe cơ bản có phải là nguyên nhân gây ra lo ấu. Tác động cải thiện bằng cách ăn uống cho thích hợp và tập luyện cũng rất kiến hiệu. Và, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhân mạnh, trau dồi tình thươngtăng cường quan hệ với người khác cũng thúc đẩy tinh thần phân khởi và chống lại được trạng thái lo ấu. 

Tuy nhiên trong công việc tìm kiếm những chiến lược thực tiễn để khắc phục lo ấu, một kỹ thuật nổi bật là có hiệu quả đặc biệt: can thiệp bằng nhận thức. Đó là một trong những phương pháp chính mà Đức Đạt Lai Lạt Ma áp dụng để khắc phục phiền muộn và lo ấu hàng ngày. Áp dụng cùng một phương pháp để chế ngự giận dữsân hận, kỹ thuật này đòi hỏi tích cực không chấp nhận những ý nghĩ phát sanh lo ấu và thay thế chúng bằng ý nghĩthái độ tích cựchợp lý

Vì lo ấu lan tràn trong văn hóa của chúng ta, tôi hăm hở nêu đề tài này ra với Đức Đạt Lai Lạt Ma để xem Ngài đối trị nó ra sao. Lịch trình của Ngài vào ngày đó rất bận nên tôi cảm thấy sự lo lắng của chính tôi cũng tăng lên, trước cuộc phỏng vấn, tôi được người thư ký của Ngài báo phải rút ngắn cuộc nói chuyện ngày hôm nay. Cảm thấy bị áp lựcthời giờ và lo không thể nói hết những đề tài mong muốn,, tôi ngồi nhanh xuống và bắt dầu trở lại xu hướng lúc hỏi lúc không để cố lấy ra được những câu trả lời đơn giản của Ngài. 

"Ngài biết, sợ hãi và lo ấu là chướng ngại chính trong việc hoàn thành mục tiêu của chúng ta,liệu chúng là mục tiêu bên ngoài hay là sự tiến triển bên trong. Trong khoa tâm thần chúng tôi có nhiều phương pháp giải quyết vấn đề này, nhưng tôi vẫn muốn biết quan điểm của Ngài, cách tốt nhất để khắc phục sợ hãi và lo ấu là gì ? 

Không đồng ý việc quá đơn giản hóa vấn đề theo ý tôi, Ngài trả lời bằng phương pháp rất đặc trưng. 

"Khi đối trị với sợ hãi, trước nhất chúng ta cần phải biết có nhiều loại lo sợ. Có những loại sợ rất chính đáng, căn cứ vào những lý do hợp lý, thí dụ như sợ bạo lực, sợ đổ máu. Chúng ta có thể thấy những điều ấy rất là xấu. Rồi có những sự lo sợ về những hậu quả tiêu cực xẩy ra sau này từ những hành động tiêu cực của ta, sợ khổ sở, sợ những cảm xúc tiêu cực như sân hận. Tôi nghĩ đó là những loại sợ hãi đứng đắn, những loại sợ hãi này đưa chúng ta vào chánh đạo, giúp chúng ta tiến tới thành người có lòng tốt." Ngài ngừng lại suy nghĩtrầm ngâm: "Mặc dù trong một ý nghĩa nào đó đây là những loại lo sợ, tôi nghĩ có khác biệt giữa sự lo sợ những điều ấy và sự tìm hiểu của tâm về tính chất phá hoại của những điều ấy". 

Ngài ngừng lại hồi lâu, và có vẻ cân nhắc, trong khi tôi lén nhìn vào đồng hồ đeo tay. Rõ ràng là Ngài không cảm thấy thì giờ đã hết như tôi. Cuối cùng Ngài tục nói một cách thong thả

"Mặt khác có những loại sợ hãi do chính tinh thần chúng ta tạo nên. Những loại lo sợ này hoàn toàn dựa trên hình chiếu tinh thần. Thí dụ như có nhiều cái sợ hãi rất con nít; Ngài cười, "như khi còn nhỏ, đi qua chỗ tối, nhất là các phòng tối trong điện Potola thì thấy sợ [*] -- cái sợ này hoàn toàn do tưởng tượng. Hay khi còn nhỏ những người quét tước và trông nom tôi thường khuyến cáo tôi có con chim cú hay bắt trẻ con ăn thịt", Đức Đạt Lai Lạt Ma cười to hơn nữa ."Và tôi tin là họ đã nói thật".

[*] Potola là cung điện mùa đông truyền thống của Đức Đạt Lai Lạt Ma, biểu tượng của di sản lịch sửtôn giáo Tây Tạng. Dược Vua Tây Tạng là Song-Tsen Gampo xấy dựng vào thế kỷ thứ 7, sau này bị phá hủy và không được xây dựng lại đến tận thế kỷ thứ 17 của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Công trình hiện thời đứng uy nghiêm với chiều cao 440 feettren đỉnh "Đồi Đỏ ở Lhasa. Dài hơn 1/4 dặm, có trên 1000 phòng, lễ đường, và phòng nhỏ. 

Ngài tiếp tục, " Có những loại lo sợ khác căn cứ vào tưởng tượng, Thí dụ nếu bạn có những cảm tưởng tiêu cực do tình trạng tinh thần, rồi bạn suy bụng ta ra bụng người, thấy người này có vẻ tiêu cựcthù nghịch. Kết quả, bạn cảm thấy sợ hãi. Loại sợ hãi này, tôi nghĩ liên quan đến sân hận và hầu như dẫn đến sự sáng tạo tinh thần. Cho nên, đối trị lo sợ trước hết bạn cần phải sử dụng khả năng suy luậncố gắng khám phá xem có cơ sở vững vàng nào để bạn sợ không" 

Tôi hỏi, "Vậy thì, thay vì quá lo sợ, hay tập trung lo sợ vào một cá nhân hay tình huống, nhiều người trong chúng tôi bị khó chịu nhiều hơn là những lo lắng lan truyền đang diễn ra về nhiều vấn đề hàng ngày. Vậy Ngài có gợi ý gì về cách giải quyết chúng không?"

Gật đầu Ngài đáp, "Một trong những cách giải quyết mà chính tôi thấy rất hữu hiệu để giảm bớt loại lo lắng này là trau dồi tư tưởng: nếu thấy tình huống hay khó khăn có thể sửa chữa được thì không cần phải lo lắng. Nói một cách khác, nếu có giải pháp hay có lối thoát khỏi khó khăn, thì ta không cần để nó áp đảo. Hành động thích hợptìm ra giải pháp. Sáng suốt hơn là tập trung năng lực tìm giải pháp hơn là lo lắng về vấn đề. Còn nếu không có cách giải quyết nào thoát ra khỏi khó khăn, thì cũng không có lý do gì phải lo, vì dù sao đi nữa ta cũng đâu làm được điều gì hơn. Trong trường hợp đó, nếu bạn chấp nhận sự thật càng sớm thì bạn càng cảm thấy dễ chịu hơn. Dĩ nhiên công thức này ngụ ý, ta nên trực tiếp đương đầu với vấn đề. Nếu không bạn sẽ không thể thấy liệu có cách nào để giải quyết không."

"Còn như đã nghĩ như vậy mà vẫn không làm dịu bớt được sự lo lắng thì ta phải làm sao?"

"Vậy thì bạn phải suy nghĩ về những ý nghĩ này một chút nữa và phải củng cố những ý nghĩ này. Hãy liên tục tự nhắc nhở mình. Dù sao tôi nghĩ rằng phương pháp này có thể giúp giảm lo lắng, nhưng không phải lúc nào nó cũng có kết quả. Nếu bạn đang đối phó với sự lo lắng đang diễn ra, tôi nghĩ bạn cần phải xét đến vấn đề một cách cụ thể. Có nhiều loại lo lắngnguyên nhân khác nhau. Thí dụ như có những loại lo lắngbối rối có thể vì lý do sinh học; như có người bị mồ hôi ướt lòng bàn tay mà hệ thống y khoa Tây Tạng cho đó là sự mất quân bình tinh vi về mức độ sinh lực. Có vài loại lo lắng giống như suy nhược, có thể có nguồn gốc sinh học, và đối với những loại này, cách điều trị y tế có thể có ích cho loại này. Do đó, để đương đầu với lo lắng một cách có hiệu quả, bạn cần xem xét về kiểu loại và nguyên nhân

Giống như sợ sệt, lo lắng có nhiều loại khác nhau. Thí dụ như loại lo lắng mà tôi cho là thông thường bao gồm sự lo sợ tỏ ra khờ dại truớc mặt người khác hay sợ người khác nghĩ xấu về mình."

Tôi ngắt lời: "Ngài có bao giờ sợ hay lo lắng như thế không?"

Đức Đạt Lai Lạt Ma cười phá lên và không hề do dự, trả lời: "Có chứ"

"Xin Ngài cho một thí dụ"

Ngài nghĩ một chút rồi nói: "Thí dụ như năm 1954, ở Trung Quốc, vào ngày đầu tiên gặp Chủ Tịch Mao Trạch Đông, và trong một dịp khác gặp Chu Ân Lai. Lúc ấy tôi không biết hết mọi nghi thức và tập quán ngoại giao. Thủ tục thông thường của cuộc gặp là bắt đầu bằng vài câu xã giao rồi mới đi vào phần thảo luận công việc. Nhưng lúc đó, tôi bối rối đến nỗi mới ngồi xuống đã nhảy ngay vào công việc! Đức Đạt Lai Lạt Ma cười khi nhớ lại chuyện này."Tôi còn nhớ là sau đó, người phiên dịch của tôi, một người cộng sản Tây Tạng, rất đáng tin cậy và là người bạn tốt, đã nhìn tôi cười và chế nhạo tôi về chuyện ấy. 

"Tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ, trước buổi thuyết giảng hay nói chuyện trước công chúng, tôi vẫn cảm thấy hơi lo, cho nên những phụ tá của tôi hay nói, "Nếu vậy tại sao Ngài lại nhận lời mời thuyết giảng.?" Ngài lại cười. 

Tôi hỏi: "Vậy bản thân Ngài, Ngài làm sao để đối phó với loại lo lắng này?"

Với giọng nói bình thản, Ngài nhỏ nhẹ: "Tôi không biết" .. Ngài ngập ngừng, và chúng tôi ngồi lặng thinh một lúc lâu, và một lần nữa, Ngài có vẻ cân nhắcngẫm nghĩ thận trọng. Cuối cùng, Ngài nói: "Tôi nghĩ rằng có một động cơ thích hợpthành thật là những điều chủ yếu để chế ngự những loại sợ hãilo lắng này. Do đó, nếu tôi lo lắng trước buổi nói chuyện thì tôi sẽ tự nhắc nhở mình lý do chính yếu, mục đích của buổi giảng, là ít ra cũng trình bày được một vài lợi ích cho người khác chứ không phải là khoe kiến thức của mình. Vậy thì cái gì tôi biết, tôi sẽ giải thích. Còn những gì tôi không hiểu rõ ràng - thì đâu có hề gì; tôi chỉ cần nói "cái này khó đối với tôi". Không có lý do gì phải dấu diếm hay giả vờ. Từ quan điểm này với động cơ đó tôi không phải lo lắng về điệu bộ ngờ nghệch hay quan tâm đến chuyện người khác nghĩ gì về tôi. Do đó tôi thấy rằng động cơ thành thật là một loại thuốc giải để giảm bớt sợ hãilo lắng." 

Vậy đôi khi sự lo lắng còn hơn là sợ cái vẻ khờ dại trước mặt người khác. Còn hơn cả sợ thất bại, cảm tưởng kém cỏi..." Tôi suy nghĩ một lúc để xem bộc lộ được bao nhiêu ý riêng. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma chăm chú lắng nghe, gật đầu im lặng trong khi tôi nói, tôi không biết chắc Ngài nghĩ gì. Có thể đó là thái độ đồng tình, nhưng trước khi hiểu được, tôi đã chuyển việc thảo luận những vấn đề chung sang khẩn khoản xin lời khuyên của Ngài về cách đối phó với sợ hãilo lắng của chính tôi. 

"Tôi không biết sao... đối với bệnh nhân có khi tôi thấy thật khó điều trị... những trường hợp không thể nào chẩn đoán được rõ ràng, như là suy nhược thần kinh hay những bệnh dễ trị khác. Có những bệnh nhân bị rối loạn tính cách nghiêm trọng như những người không chữa được bằng thuốc hay không có tiến triển nhiều với tâm lý trị liệu dù tôi đã hết sức cố gắng. Đôi khi tôi không biết làm gì với những người này, làm sao để giúp đỡ họ. Hình như tôi không thể nắm được chuyện gì xẩy ra cho họ. Việc này làm tôi tê liệt, phần nào bất lực." Tôi than phiền: "Tôi cảm thấy bất tài, và điều này thực sự gây ra một loại lo lắng nào đó",

Ngài lắng nghe tôi một cách nghiêm trang rồi hỏi với giọng thân mật: "Có phải ông nói rằng ông có thể giúp cho bẩy mươi phần trăm bệnh nhân của ông?"

Tôi trả lời: "Ít nhất là như vậy" 

Vỗ nhẹ vào tay tôi, Ngài nói: "Vậy tôi nghĩ không có vấn đề gì ở đây. Nếu ông chỉ có thể giúp cho ba mươi phần trăm bệnh nhân, thì tôi khuyên ông nên nghĩ đến việc đổi sang nghề khác. Nhưng tôi nghĩ ông làm tốt lắm. Người ta cũng thường đến nhờ tôi giúp đỡ. Có nhiều người tìm kiếm phép mầu, hay phép lạ vân vân... và tôi không thể nào giúp hết mọi người. Nhưng tôi nghĩ vấn đề chính là động cơ thúc đẩy - có một động cơ thực sự trong việc giúp người. Rồi thì hãy cố làm hết sức của mình và không phải lo lắng gì nữa

Về trường hợp của tôi, dĩ nhiên cũng có những tình thế dễ bị tổn thương hay nghiêm trọng, và một trách nhiệm nặng nề. Tôi nghĩ điều tồi tệ nhất là khi người ta đặt quá nhiều tin tưởng vào tôi trong những trường hợp ngoài khả năng của tôi. Trong trường hợp này, đôi khi tôi đấm ra lo lắng. Một lần nữa, chúng tôi quay trở lại ý nghĩa quan trọng của sự động cơ. Rồi tôi có gắng nhắc nhở mình trong chừng mực liên quan đến động cơ, hãy thành thậtcố gắng hết sức mình. Bằng động cơ thành thực, động cơ từ bi, cho dù tôi có gây lỗi lầm, hay thất bại thì cũng không có lý do gì để hối tiếc. Tôi đã cố hết sức làm tốt phần của tôi. Rồi, bạn sẽ thấy, nếu tôi thất bại, đó là vì tình thế vượt quá những cố gắng hết sức của tôi. Vậy động cơ thúc đẩy thành thật đó loại bỏ sợ hãi và cho bạn lòng tự tin. Mặt khác, nếu động cơ thầm kín là để lường gạt người ta, khi thất bại, bạn thực sự trở nên bối rối. Nhưng nếu bạn trau dồi động cơ từ bi, nếu bạn có thất bại, bạn không hối tiếc

"Cho nên, nói đi nói lại, tôi nghĩ động cơ thích hợp có thể là cái bảo vệ, che chở cho bạn chống lại những cảm nghĩ sợ hãilo lắng. Động cơ quan trọng như vậy. Thực ra tất cả hành động của con người có thể được nhìn thấy bằng hoạt động, và động lực đằng sau tất cả những hành động là động cơ của ta. Nếu bạn phát triển một động cơ trong sángthành thật, nếu bạn được thúc đẩy bởi mong muốn giúp đỡ trên cơ sở của lòng nhân ái, từ bitôn trọng, thì bạn có thể thi hành bất cứ công việc gì, trong bất cứ lãnh vực nào, và hoạt động một cách hữu hiệu hơn với ít sợ hãilo lắng hơn, không sợ hãi gì về điều người ta nghĩ về bạn hay liêu cuối cùng bạn có đạt được mục tiêu hay không. Cho dù bạn không đạt được mục tiêu, bạn vẫn cảm thấy hài lòng vì bạn đã hết sức cố gắng. Nhưng bằng một động cơ xấu, người ta có thể khen bạn, hay bạn có thể đạt được mục tiêu, nhưng bạn vẫn không cảm thấy vui".

Trong việc bàn luận thuốc giải bệnh lo lắng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra hai phương cách trị liệu, mỗi phương cách tốt ở một mức độ. Cách thứ nhất liên quan đến việc tranh đấu tích cực chống lại sự tư lựlo lắng kinh niên bằng cách áp dụng tư duy đề kháng: hãy nhắc nhở mình, nếu có cách giải quyết vấn đề thì không cần phải lo. Nếu không có cách giải quyết, thì cũng không có lý do gì phải lo. 

Phương thuốc giải thứ hai là phương pháp trị liệutính cách bao quát hơn. Nó liên quan đến việc biến đổi động cơ tiềm ẩn của ta. Có một sự trái ngược đáng lưu ý giữa cách giải quyết về động cơ thúc đẩy con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma với tâm lý học Tây Phương Như đã thảo luận trước đây, các nhà nghiên cứu chuyện về động cơ thúc đẩy con người đã điều tra về những động cơ bình thường của con người, nhìn vào cả hai nhu cầu bẩm sinh và nhu cầu do biết được. Ở mức độ này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắm vào sự phát triển và sử dụng lòng ham học được để nâng cao "nhiệt tình và quyết tâm" của ta. Trong một số khía cạnh, nó giống như quan điểm của nhiều "chuyên gia về động cơ " truyền thống Tây Phương, tìm cách đẩy mạnh tinh thần hăng háiquyết tâm đạt mục đích. Nhưng điều khác biệt là Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm cách xấy dựng quyết tâm và niềm say mê làm những hành động thiện nhiều hơn nữa, và loại bỏ những nét tinh thần tiêu cực hơn là nhân mạnh vào sự đạt được những thành công vật chất, tiền bạc hay quyền thế. Và có lẽ sự khác biệt nổi bật nhất là trong khi "những phát ngôn viên về động cơ" bận bịu thổi phồng lên ngọn lửa của những động cơ hiện có về những thành công vật chất, và những lý thuyết gia Tây Phương bận tâm đến việc phân loại những động cơ tiêu chuẩn của con người, thì mối quan tâm hàng đầu về động cơ con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nằm trong việc uốn nắn và thay đổi động cơ tiềm ẩn thành động cơ của từ binhân ái

Trong hệ thống huân luyện tâm và đạt hạnh phúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma, càng được thúc đẩy bởi lòng vị tha, thì càng ít sợ trước những hoàn cảnh thậm chí cực kỳ lo ấu dằn vặt. Nhưng có một ít cách có thể áp dụng như nguyên tắc này ngay cả khi động cơ thúc đẩy của bạn không hoàn toàn do lòng vị tha.Đứng xa ra và xem xét và chỉ cần chắc chắn là bạn không có ý hại người và động cơ thúc đẩy của bạn thành thực có thể giúp bạn giảm thiểu lo ấu trong hoàn cảnh bình thường hàng ngày. 

Không bao lâu sau lần đàm thoại trên với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi ăn trưa cùng với một nhóm người gồm có một thanh niên trẻ mà tôi tôi chưa gặp trước đây, một sinh viên của một trường đại học địa phương. Trong bữa ăn này, có người hỏi tôi về đợt đàm luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma tiến triển ra sao và tôi có kể lại cuộc đàm thoại về việc khắc phục lo lắng. Sau khi im lặng nghe tôi miêu tả khái niệm về "động cơ thành thực là một thuốc giải cho bệnh lo lắng", người sinh viên giãi bày là anh thường khổ tâm vì nhút nhát và rất lo lắng trong giao tiếp xã hội. Suy nghĩ về cách áp dụng kỹ thuật này để vượt qua sự lo lắng của mình, người học sinh này thì thầm "Tốt tất cả điều đó rất hay. Nhưng tôi nghĩ rằng phần khó khăn thường là phải có động cơ cao thượng về nhân áitừ bi

"Tôi nghĩ điều đó rất đúng", Tôi phải thừa nhận

Cấu chuyện chuyển qua những đề tài khác, và chúng tôi chấm dứt bữa ăn trưa. Tuần lễ sau đó tôi tình cờ lại gặp người sinh viên này cũng tại quán ăn này. 

Lại gần tôi một cách niềm nở, anh ta nói, " ông có nhớ bữa trước chúng ta có nói về động cơ thúc đẩy và lo lắng? Tôi có đem thực hành và nó thực sự hữu hiệu! Có một thiếu nữ làm việc trong tiệm bán đồ tại khu bán hàng mà tôi đã gặp cô rất nhiều lần, lúc nào tôi cũng định mời cô đi chơi, vì quá e thẹn và lo lắng sợ cô từ chối nên không bao giờ dám hỏi cô. Vậy mà, hôm nọ, tôi đến gặp cô, nhưng lần này tôi bắt đầu nghĩ đến động cơ thúc đẩy đã mời cô đi chơi. Đương nhiên động cơ thúc đẩy là muốn hẹn hò với cô. Nhưng đằng sau đó chính là lòng mong ước của tôi có thể tìm thấy một người mà tôi thương yêu và người ấy cũng yêu tôi. Khi tôi nghĩ như vậy, tôi nhận thấy không có gì sai trái trong việc này, và động cơ thúc đẩy của tôi thành thực. Tôi không muốn làm hại cô hay chính tôi, mà chỉ mong những điều tốt lành. Ghi nhớ điều này trong tâm và tự nhắc nhở một đôi lần không hiểu sao nó có vẻ có ích khiến cho tôi đã có can đảm bắt chuyện với cô. Tim tôi đập mạnh, nhưng tôi cảm thấy tuyệt vời vì đã có thể can đảm để nói chuyện với cô"

Tôi nói, "Tôi rất vui được biết việc đó" "Rồi chuyện ra sao nữa?

"À thì ra cô ấy đã có bạn trai chính thức rồi. Tôi hơi thất vọng một chút nhưng không sao. Tôi cảm thấy vui vì đã có thể vượt qua được sự rụt rè e thẹn của tôi. Và việc này làm cho tôi hiểu rằng nếu tôi chắc chắn không có gì sai trái trong động cơ thức đẩy của tôi, và ghi nhớ điều này trong tâm, nó sẽ giúp tôi lần sau ở trong hoàn cảnh như vậy."

THÀNH THẬTTHUỐC GIẢI ĐỘC CHO TỰ TI VÀ TỰ TÔN

Ý thức lành mạnh của tự tin là một nhân tố chủ yếu trong việc đạt mục tiêu của chúng ta. Điều này rất đúng dù mục tiêu của chúng tađạt được bằng cấp đại học, thành công trong công việc làm ăn, có quan hệ mỹ mãn, hay rèn luyện tâm trí để được hạnh phúc hơn. Thiếu tự tin cản trở những cố gắng tiến tới, đối đầu với thử thách và cả đến phải chấp nhận may rủi khi cần thiết để theo đuổi mục tiêu của chúng ta. Quá tự tincó thể ngang bằng với nguy hiểm. Những người khổ vì có ý nghĩ thổi phồng thái 

quá khả năng và thành quả của mình luôn luôn bị ngã lòng, thất vọng, và nóng giận khi xâm nhập thực tế vàthiên hạ không chấp nhận giá trịcủa cách nhìn lý tưởng hóa về mình của những người ấy. Và họ lúc nào cũng gần như sắp bị đắm chìm trong suy nhược khi không thể sống theo hình ảnh lý tưởng của mình. Thêm vào đó, tính phô trương của những cá nhân này thường dẫn đến cảm giác có quyền hành hồ như hách dịch khiến họ cách biệt với những người khác và cản họ trong những mối quan hệ thoải mái về tình cảm. 

Cuối cùng, đánh giá quá cao khả năng của mình có thể dẫn đến những hiểm họa. Như viên thanh tra Dirty Harry Callahan, trong tâm trạng bình thản, nói cho chúng ta biết trong phim Magnum Force (trong khi theo dõi tên vô lại quá tự tin nên đã tự hại mình), " Mỗi một người phải biết giới hạn của mình".

Trong truyền thống tâm lý trị liệu ở Phương Tây, các nhà lý luận gia đã gắn cả tự ti và tự tôn với những xáo trộn trong hình ảnh bản thân của con người và tìm nguyên nhân của những xáo trộn này trong cách nuôi dưỡng đứa trẻ lúc còn bé. Nhiều lý luận gia coi tự ti và tự tôn như hai mặt của một đồng tiền, quan niệm việc thổi phòng hình ảnh bản thân là sự phòng thủ vô thức chống lại cái bất an nằm ở dưới và những cảm nghĩ tiêu cực về mình. Những bác sĩ chuyên khoa phân tích tâm lý đã đặc biệt trình bầy những lý thuyết phức tạp về sự nhận định sai lạc bản thân mình xảy ra như thế nào. Họ giải thích hình ảnh bản thân mình ra sao khi người ta tiếp thu thông tin phản hồi từ môi trường. Họ cũng mô tả làm thế nào mà con người phát triển khái niệm mình là ai bằng cách kết hợp những thông điệp rõ rệt hay ngấm ngầm về mình từ cha mẹ họ và làm thế nào mà những sự xáo trộn có thể xẩy ra khi những tương tác lúc nhỏ với những người chăm sóc không được lành mạnh và không biết cách nuôi nâng. 

Khi những xáo trộn về hình ảnh bản thân đủ trầm trọng để gây ra những vấn đề thật sự trong đời sống, nhiều người quay về với tâm lý trị liệu. Những bác sĩ tâm lý huân luyện về nhận thức tập trung giúp bệnh nhân giành được sự hiểu biết về những kiểu bất thường trong quan hệ lúc thơ ấunguyên nhân của vấn đềcung cấp cho họ cách phản ứng thích hợp và trong môi trường điều trị mà bệnh nhân có thể từ từ khôi phục lại và sửa chữa hình ảnh bản thân tiêu cực của mình. Mặt khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại tập trung vào "nhổ mũi tên ra" thay vì tốn thì giờ xem ai bắn. Thay vì thắc mắc tại sao người ta lại tự ti và tự tôn, Ngài đưa ra một phương pháp đánh thẳng vào những trạng thái tâm tiêu cực

Trong những thập niên gần đây, tính chất của cái ngã (cái tôi) đã là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong lãnh vực tâm lý học. Trong "thập niên của tôi", trong những năm 80, có hàng ngàn bài viết mỗi năm khám phá những vấn đề về tự ti và tự tôn. Nghĩ đến đó trong đầu, tôi đã đem ra hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma

"Trong một buổi thảo luận của chúng ta, Ngài có nói khiêm tốn là một nét tích cực, và nó liên quan ra sao tới việc tu dưỡng tính kiên nhẫnkhoan dung. Trong khoa tâm lý Tây Phươngvăn hóa của chúng tôi nói chung, dường như khiêm cung không được chú ý tới để phát triển những đức tính như mức tự trọng và tự tin cao. Thật ra ở Phương Tây, người ta đặt quá nhiều tầm quan trọng vào những thuộc tính này. Tôi chỉ thắc mắc - Vậy chứ Ngài có cảm thấy đôi khi người Tây Phương có khuynh hướng nhân mạnh quá mức vào tự tin, phần nào quá ham mê hay quá say mê?

"Không hẳn vậy" Ngài trả lời, mặc dù đề tài này có thể là khá phức tạp. Thí dụ, những bậc chân tu là những người đã phát nguyện hay phát triển quyết tâm loại bỏ tất cả những trạng thái tiêu cực của tâm hầu mang lại hạnh phúc tối thượng cho tất cả chúng sinh. Họ có tầm nhìn xa và khát vọng. Điều này cần có ý thức cảm giác tự tin to lớn. Và sự tự tin này rất quan trọng vì nó cho bạn gan dạ giúp bạn đạt được mục tiêu vĩ đại. Về một ý nghĩa nào đó, điều này dường như có vẻ là kiêu ngạo, mặc dù không phải trong phương cách tiêu cực. Nó căn cứ vào những lý do có cơ sở Cho nên, ở đây, tôi có thể coi họ là rất can đảm- Tôi có thể coi họ là những anh hùng". 

"Vậy đối với vị đại đạo sư, cái vẻ kiêu ngạo bề ngoài chính ra hồ như là loại tự tin và lòng can đảm". Tôi chấp nhận. Nhưng đối với những người bình thường, trong những hoàn cảnh hàng ngày, lại là điều ngược lại - một số người có vẻ như rất tự tin và tự trọng nhưng thật ra họ chỉ là những người rất kiêu ngạo. Tôi hiểu rằng theo Phật Giáo, kiêu ngạo được xếp loại là một trong những xúc cảm cơ bản gây ra đau khổ. Thật vậy, tôi biết điều đó theo một hệ thống phân loại, họ liệt kê bảy loại kiêu ngạo khác nhau. Vậy tránh hay khắc phục kiêu ngạo được coi như rất quan trọng. Nhưng cũng như vậy khi có ý thực mạnh về tự tin. Đôi khi dường như giữa chúng chỉ có một ranh giới rất nhỏ. 

"Làm sao Ngài có thể phân biệt được chúng để trau dồi cái này và giảm thiểu cái kia?" 

Ngài thừa nhận, "Đôi khi thật là khó phân biệt giữa tự tin và kiêu ngạo, có lẽ chỉ có một cách là xem liệu nó có cơ sở hay không. Người có thể ý thức thấy mình hơn hẳn ai đó rất có cơ sở hoặc rất đứng đắn, điều đó có thể chứng minh được và điều đó có thể có cơ sở vững chắc. Và cũng có thể đó là ý thức cái ta được thổi phồng hoàn toàn vô căn cứ, thì đó lại là kiêu ngạo. Vấy nói theo tình trạng hiện tượng, chúng có vẻ giống nhau. "Nhưng một người kiêu ngạo luôn luôn cảm thấy mình có một cơ sở vững vàng về .." 

Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận, "Phải, phải" 

Tôi lại hỏi, "Vậy làm sao Ngài có thể phân biệt được?" 

"Tôi nghĩ đôi khi chúng ta chỉ có thể phán xét bằng hồi tưởng hoặc bởi cá nhân đó hoặc từ cái nhìn của người thứ ba. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại rồi nói đùa, " Có thể người ấy phải ra tòa án để tìm ra có phải đó là trường hợp tự cao hay kiêu ngạo không! Ngài cười. 

Ngài tiếp, "Muốn phân biệt tính tự cao tự đại và lòng tự tin đứng đắn, ta có thể nghĩ đến hậu quả về thái độ của người đó - tự phụ và kiêu ngạo thường dẫn đến những hậu quả tiêu cực trong khi lòng tự tin lành mạnh đem đến những hậu quả tích cực hơn nhiều. Do đó khi đề cập về tự tin, bạn cần nhìn xem cái gì là ý nghĩa tiềm ẩn của "cái tôi". Theo tôi ta có thể chia thành hai loại. Ý thức về bản thân hay "cái tôi" chỉ quan tâm đến đáp ứng quyền lợi bản thân, đến ham muốn ích kỷ của chính mình, và hoàn toàn không đếm xỉa đến phúc lợi của người khác. Một kiểu cái tôi khác hay ý thức về bản thân dựa vào mối quan tâm chân thành vì người khác và khao khát được giúp ích. Để thực hiện ước muốn giúp ích, ta cần có ý thức mạnh về bản thân, ý thức tự tin. Loại tự tin này dẫn đến những kết quả tích cực."

Tôi nhận xét, "Trước đây Ngài có đề cập đến cách giảm bớt kiêu ngạo hay hãnh diện, nếu thừa nhận kiêu ngạo là xấu và mong muốn khắc phục nó thì phải suy ngẫm về nỗi đau khổ của con người - suy nghĩ đến tất cả các cách mà bạn bị hay dễ bị đau khổvân vân... Ngoài cách suy ngẫm về nỗi đau khổ của con người, còn có những kỹ thuật nào khác hay thuốc giải độc đối với kiêu ngạo nữa không? 

Ngài nói, "Có một cách giải độc là nghĩ đến tính đa dạng của việc rèn luyện trí óc mà bạn có thể không biết. Thí dụ như trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có rất nhiều môn học. Vậy nghĩ xem biết bao nhiêu lãnh vực mà bạn không biết, nghĩ như vậy bạn sẽ khắc phục được tính kiêu ngạo

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại và nghĩ rằng đó là tất cả những gì Ngài muốn nói về đề tài này, tôi nhìn vào quyển sổ ghi chép rồi chuyển sang đề tài mới. Đột nhiên Ngài lại nói với giọng đầy suy tư, "Bạn biết không, chúng ta đang nói về việc phát triển lòng tự tin lành mạnh.. Tôi nghĩ rằng sự thành thật và tự tin có liên hệ chặt chẽ với nhau". Tôi hỏi, "Ý Ngài muốn nói về thành thực với chính mình về khả năng của chính mình, hay ý Ngài muốn nói thành thật với người khác?"

Ngài trả lời, "Cả hai, bạn càng thành thật, càng cởi mở thì bạn càng ít sợ, vì không có lo lắng gì khi phơi bầy hay bộc lộ với người khác. Do đó tôi nghĩ càng thành thật lại càng tự tin". 

Tôi nói, "Tôi muốn biết thêm một chút về sự đối trị với vấn đề tự tin của chính bản thân Ngài? Ngài nói dường như nhiều người đến yêu cầu Ngài làm phép lạ. Dường như họ đã đặt nhiều áp lực cho Ngài và có nhiều mong muốn nơi Ngài. Cho dù Ngài có một động cơ căn bản chính đáng, việc này không làm cho Ngài cảm thấy thiếu tin tưởng về khả năng của Ngài hay sao?" 

"Ở đây, tôi nghĩ rằng bạn nên nhớ khi nói đến 'thiếu lòng tin' hay có 'lòng tin' liên quan đến một hành động đặc biệt nào đó hay có thể là bất cứ cái gì. Để nói rằng bạn thiếu lòng tin trong việc gì đó, có nghĩa là hồ như bạn tin mình có thể làm được., nghĩa là nói chung trong phạm vi của bạn. Và rồi tuy nằm trong khả năng của bạn, bạn lại không thể làm, bạn bắt đầu cảm thấy, "Ồ, có lẽ tôi không đủ sức hay tài giỏi để làm việc đó hay cái gì đó theo hướng ấy ". Tuy nhiên với tôi, tôi biết tôi không làm được phép lạ - điều đó không dẫn đến mất lòng tin vì ngay từ đầu, tôi không bao giờ tin rằng tôi có khả năng này. Tôi không cho rằng tự mình có thể hoàn thành những nhiệm vụ như những Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ - mình có thể biết mọi thứ có thể làm đúng bất cứ điều gì và bất cứ lúc nào. Do đó, khi người ta đến với tôi để xin chữa bệnh hay thi triển phép lạ hay những thứ như vậy, thay vì làm cho tôi thiếu lòng tin thì tôi chỉ cảm thấy lúng túng mà thôi.

"Tôi nghĩ rằng, nói chung, thành thật với mình và người về những điều mình có thể làm hay không thể làm được, có thể chống lại cảm nghĩ thiếu lòng tin". 

Nhưng, thí dụ, hiện nay trong việc đối phó với Trung Quốc, đôi khi tôi cảm thấy thiếu tự tin. Nhưng tôi luôn luôn tham khảo tình thế với các quan chức và trong một số trường hợp với những người không phải là quan chức. Tôi hỏi ý kiến và bàn thảo với bạn tôi. Vì nhiều quyết định được thực hiện trên cơ sở thảo luận với nhiều người khác nhau không hấp tấp vội vàng, nên bất cứ quyết định nào đã được tiến hành, làm cho tôi đủ tin, không có lý do hối tiếc trong việc đã làm

Không sợ hãiđánh giá mình một cách thành thật có thể là một vũ khí mạnh mẽ chống lại sự tự ngờ vực và thiếu tự tin. Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng loại thành thật này có thể làm thuốc giải độc cho những tâm trạng tiêu cực đã được thực sự xác nhận bởi một số những nghiên cứu gần đây cho thấy rõ ràng là những người có quan điểm thực tếđứng đắn về mình có khuynh hướng cầu thị và có lòng tin hơn những người ít tự biết về mình hoặc biết không đúng về mình. 

Qua nhiều năm, tôi thường được chứng kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma minh họa lòng tự tin bắt nguồn từ tính thành thật và ngay thẳng về khả năng của một người. Thật quá kinh ngạc khi lần đầu tiên nghe Ngài nói một cách đơn giản, "Tôi không biết" trước một số đông cử tọa để trả lời một câu hỏi. Không giống như những điều tôi thường thấy ở những giảng viên đại học hay ở những người cho mình là có thẩm quyền, Ngài đã nhận là mình thiếu kiến thức mà không hề lúng túng, không cần nói rõ hơn về những lời phát biểu hay giả vờ mình biết đây bằng cách nói quanh co. 

Thực tế hình như Ngài rất thích thú trước câu hỏi khó khăn mà không có câu trả lờithường hay nói đùa về việc này. Thí dụ như, vào một buổi chiều ở Tuscon, Ngài đang bình luận về một câu kệ của Shantideva trong cuốn "Hướng dẫn về Lối Sống của Bồ Tát" có lý luận rất phức tạp. Sau một lúc cố gắng, Ngài thấy lộn xộn, bèn phá lên cười và nói rằng: "Tôi thấy lộn xộn! tốt hơn là bỏ lại, không bàn luận nữa. Bây giờ đến bài kệ tiếp..." Để đáp lại tiếng cười tán thưởng từ phía khán giả, Ngài con cười lớn hơn nữa và nói rằng, " Có một cách diễn đạt gần giống điều này. Cách diễn đạt đó giống như người già ăn uống - người già thì răng long - Cho nên cái gì mềm thì ăn, còn cái gì cứng thì bỏ". Vẫn còn cười Ngài tiếp tục, " Vậy ngày hôm nay chúng ta bỏ cái đó lại". Ngài chẳng bao giờ nao núng vào lúc ấy nhờ lòng tin tuyệt đối của mình. 

NGHĨ VỀ TIỀM NANG CỦA CHÚNG TA NHƯ THUỐC GIẢI CHO SỰ THÙ HẬN BẢN THÂN 

Trong chuyến đi Ấn Độ vào năm 1991, hai năm trước chuyến viếng thăm Arizona của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi có được gặp Ngài một lần tại tư gia ở Dharamsala. Tuần lễ ấy Ngài có buổi họp hàng ngày với một nhóm các khoa học gia, thầy thuốc, bác sĩ tâm lý, và giảng viên về thiền xuất xắc Tây Phương để tìm cách khám phá mối liên hệ giữa cơ thể và tinh thầntìm hiểu sự liên quan giữa kinh nghiệm xúc cảm và sức khỏe của cơ thể. Tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma vào buổi xế chiều, sau một trong những cuộc gặp gỡ với các khoa học gia. Vào cuối buổi phỏng vấn, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi, "Ông biết tuần này tôi đang gặp gỡ các khoa học gia?" 

"Vâng tôi có biết..." "Có điều này tôi thấy rất ngạc nhiên. Đó là khái niệm 'thù ghét bản thân mình'! ông có thấy quen thuộc với khái niệm này không?" 

"Rất quen; khá nhiều bệnh nhân của tôi đau khổ về chứng này". 

"Khi họ nói về điều này, mới đầu tôi không chắc có hiểu đúng hay không." 

Ngài cười và nói, "Tôi nghĩ : -'dĩ nhiên chúng ta yêu chính mình! Sao lại có người ghét bản thân mình?' Mặc dù tôi nghĩ rằng mình hiểu tinh thần hoạt động như thế nào, nhưng ý nghĩ ghét mình quả thật hoàn toàn mới đối với tôi. Lý do tại sao tôi không thể tin được vì người Phật Tử tu tập chăm chỉ cố gắng khắc phục thái độ cho mình là trung tâm, tư tưởng và động cơ ích kỷ. Từ quan điểm này, tôi nghĩ chúng ta thương yêu trìu mến bản thân mình quá nhiều. Vậy nghĩ đến khả năng không thương yêu chính mình mà lại còn ghét chính mình, thì quả thật không thể tin được. Là bác sĩ tâm lý ông có thể nào giải thích về khái niệm này, tại sao nó lại xẩy ra?" 

Tôi diễn tả ngắn gọn cho Ngài nghe quan niệm tâm lý về vấn đề thù ghét bản thân nẩy sanh ra sao. Tôi giải thích hình ảnh bản thân chúng ta được hình thành bởi cha mẹ và cách nuôi dưỡng như thế nào; chúng ta đã tập nhiễm những thông điệp ẩn tàng về mình từ cha mẹ trong khi lớn lên và phát triển ra sao, và tôi phác qua hoàn cảnh đặc biệt tạo nên hình ảnh bản thân tiêu cực. Tôi đi vào chi tiết những nhân tố làm tăng sự thù hận chính mình, như cách hành xử của chúng ta không xứng đáng hình ảnh lý tưởng về bản thânmiêu tả một vài khía cạnh mà hận thù bản thân được nặng thêm vì văn hóa, đặc biệt ở một số phụ nữ và dân tộc thiểu số. Trong khi tôi bàn luận về những điều này, Đức Đat Lai Lạt Ma tiếp tục gật đầu suy tư với vẻ mặt khó hiểu như thể Ngài vẫn thấy khó hiểu khái niệm mới lạ lùng này. 

Groucho Marx có lần châm biếm, "Tôi không bao giờ gia nhập bất cứ câu lạc bộ nào mà có tôi là thành viên". Để mở rộng loại quan niệm bản thân tiêu cực này thành nhận xét về bản chất con người, Mark Twain nói, " Thực ra trong thấm tâm, chẳng có ai tôn trọng mình tý nào ". Và lấy quan điểm bi quan về con người này và hợp nó thành lý thuyết tâm lý của mình, nhà tâm lý học nhân văn Carl Rogers, đã từng nói, "Hầu hết con người đều coi thường bản thân mình, cho mình là vô giá trị và không đáng yêu thương". 

Có một khái niệm rất phổ biến trong xã hội chúng ta, được chia sẻ bởi hầu hết các bác sĩ tâm lý đương đại là thù hận bản thân đang lan tràn trong văn hóa Tây Phương. Trong khi điều này chắc chắn đang tồn tại thì may thay nó không lan tràn như nhiều người tin tưởng. Chắc chắn nó là vấn đề chung trong số những người cần được chữa trị, nhưng đôi khi các bác sĩ tâm lý ở phòng khám lại có một cái nhìn lệch lạc, có khuynh hướng dựa trên nhận xét tổng quát về bản chất con người áp dụng cho một số ít người bước vào văn phòng của họ. Hầu hết các dữ kiện đều dựa trên thí nghiệm, tuy nhiên xác minh được sự việc có thật là người ta có khuynh hướng (hay ít ra cũng muốn) nhìn mình trong ánh sáng đẹp đẽ, tự đánh giá mình "trên trung bình" trong hầu hết các cuộc thăm dò ý kiến về những đức tính chủ quan và đáng có về mặt xã hội

Như vậy, mặc dầu thù hận bản thânthể không phổ biến như người ta tưởng, nó vẫn là một chướng ngại lớn cho nhiều người. Tôi ngạc nhiên trước phản ứng của Đức Đạt Lai Lạt Ma về khái niệm thù hận bản thân. Chỉ cần phản ứng đầu tiên của Ngài thôi cũng đủ thấy rõ ràng và chữa bệnh. 

Có hai điểm liên quan đến phản ứng đáng lưu ý của Ngài bảo đảm cho sự phân tích. Điểm thứ nhất thật đơn giản là Ngài không quen với sự tồn tại của thù hận bản thân. Mặc nhiên công nhận ngầm thù hận là một vấn đề lan tràn của con người dẫn đến cảm giác ân tượng rằng đó là một đặc tính thấm căn cố đế trong tâm trí con người. Nhưng sự thực không ai nghe thấy có trong mọi nền văn hóa, trong trường hợp này là văn hóa Tây Tạng, đã mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta đây chính là tình trạng rối loạn tinh thần, giống như tất cả những tình trạng tinh thần tiêu cực khác mà chúng ta đã thảo luận, nó không phải là phần nội tại trong tâm trí con người. Nó không phải là điều ta có từ lúc sinh ra, không phải là điều mà ta bị dồn cho, cũng không phải là đặc điểm không thể tẩy xóa được khỏi bản tính của chúng ta. Ta có thể loại bỏ nó được. Chỉ nhận thức này thôi có thể làm yếu đi sức mạnh của nó, cho chúng ta hy vọng, và gia tăng quyết tâm loại trừ nó. 

Điểm thứ hai liên quan đến phản ứng đầu tiên của Đức Đạt Lai Lạt Ma là câu trả lời của Ngài: "Ghét mình ư? Dĩ nhiên chúng ta yêu bản thân mình". Đối với một số người bị bị khổ vì hận thù bản thân hay biết ai đó có chứng bệnh giống như vậy, thì câu trả lời này thoạt đầu nghe có vẻ ngấy thơ lạ thường. Nhưng khi xét kỹ, ta thấy có một sự thật sâu sắc trong câu trả lời của Ngài. Tình thương yêu rất khó định nghĩa, và có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng có một định nghĩa có lẽ là loại tình yêu trong sáng, được tán dương nhiều nhất, đó là ước mong dứt khoát, tuyệt đốihoàn toànhạnh phúc của một người khác. Đó là sự mong muốn chân thành vì người khác được hạnh phúc dù rằng có làm thương tổn chúng ta hay dù ta có thích người đó hay không thích. Từ tận đáy lòng, chắc chắnmọi người chúng ta đều mong được hạnh phúc. Vậy nếu định nghĩa về tình thương yêu dựa trên sự mong ước chân chínhhạnh phúc cho người thì đúng là mỗi chúng ta đều mong ước yêu thương cho chính mình. Trong khi điều trị, đôi khi tôi gặp những trường hợp thù ghét bản thân cực đoan đến nỗi họ tái diễný định tự tử. Nhưng ngay cả trong trường hợp cực đoan nhất, ý tưởng quyên sinh chủ yếu là dựa trên mong ước cá nhân (dù là ý nghĩ méo mó hay lầm lạc) để giải thoát mình khỏi đau khổ chứ không phải gây ra đau khổ

Vậy có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi tới cái đích trong niềm tin của Ngài là tất cả chúng ta đều tiềm ẩn lòng thương yêu chính mình, và ý tưởng này gợi ý một loại thuốc giải độc cực mạnh cho sự thù hận bản thân: Chúng ta có thể chống lại tư tưởng khinh miệt bản thân bằng cách nhắc nhở mình dù chúng ta không thích một số tính nết của mình nhiều đến thế nào đi nữa, thì bên dưới điều đó tất cả chúng ta đều mong mình được hạnh phúc, và đó là loại tình yêu sâu sắc. 

Trong cuộc viếng thăm Dharamsala kế đó, tôi trở lại vấn đề thù hận bản thân với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đến lúc đó thì Ngài đã quen thuộc với khái niệm này và bắt đầu triển khai phương pháp để chiến đấu với nó. 

Ngài giải thích, "Theo quan điểm Phật Giáo, ở trong tình trạng thất vọng một tình trạng chán nản hồ như được coi là cực đoan rõ ràng là một chướng ngại để thực hiện những bước đi cần thiết nhằm hoàn tất mục tiêu. Trạng thái thù hận bản thân còn cực đoan hơn chán nản nhiều, và nó có thể vô cùng nguy hiểm. Với những ai tu tập Phật Giáo, thuốc giải độc cho thù hận bản thân có thể là suy nghĩ việc có thật là tất cả chúng sinh kể cả chính mình, đều có Phật tính - hạt giống hay tiềm năng vươn tới sự viên mãn, sự giác ngộ hoàn toàn cho dù hoàn cảnh hiện tạiyếu kém, nghèo nàn hay thiếu thốn. Vậy những người tu tập Phật Giáo đau khổ vì thù hận bản thân hay ghê tởm bản thân, nên tránh suy ngẫm về bản chất đau khổ của cuộc sống hay bản chất bất toại nguyện tiềm ẩn trong cuộc sống, và thay vì làm như vậy họ nên tập trung nhiều hơn nữa vào những khía cạnh tích cực của cuộc sống, như hiểu rõ về tiềm năng to lớn nằm trong bản thân của mỗi con người. Và bằng cách suy nghĩ về những cơ hội và tiềm năng này, họ có thể gia tăng cảm giác giá trị và lòng tự tin vào chính mình. 

Nêu lên câu hỏi thông thường từ cái nhìn của một người không phải là Phật Tử, tôi hỏi, "Vậy thì cái gì có thể là thuốc giải độc cho một người chưa bao giờ biết đến khái niệm Phật Tính hay một người không phải là Phật Tử?"

"Một điểm chung mà ta có thể vạch ra cho những người đó là chúng ta có phước được làm người với trí thông minh tuyệt vời. Trên hết, tất cả mọi người có khả năng quyết tâm và hướng ý thức quyết tâm vào bất cứ chiều hướng nào mình muốn. Không có gì ngờ vực về điều đó cả. Cho nên là giữ được ý thức về những tiềm năng này và luôn luôn nhắc nhở mình cho đến khi ý thức này trở thành một phần trong thói quen nhận thức về chúng sinh - gồm cả chính mình - thì điều này sẽ giúp họ giảm thiểu cảm nghĩ chán nản, bất lực và tự khinh miệt mình". Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một chút rồi tiếp tục với giọng như thăm dò nói lên Ngài đang tích cực tìm kiếmtiếp tục tiến trình khám phá.

"Tôi nghĩ rằng chỗ này có một phần nào giống với cách chúng tôi trị bệnh. Khi bác sĩ trị bệnh cho bệnh nhân, không những họ cho bệnh nhân uống thuốc kháng sinh trong những trường hợp đặc biệt, mà họ còn phải chắc chắn rằng với tình trạng sức khỏe của bệnh nhân như vậy có thể uống được thuốc kháng sinh và chịu đựng được thuốc này. Vậy muốn bảo đảm như vậy, bác sĩ phải chắc chắn rằng bệnh nhân đủ dinh dưỡng và đôi khi còn cho uống thêm sinh tố hay thuốc bồi dưỡng cơ thể. Nếu bệnh nhân có sức khỏe tiềm ẩn trong thân, thì có tiềm năng hay khả năng trong thân thể để hồi phục nhờ thuốc men. Tương tự như vậy, nếu chúng ta biết và duy trì ý thứcchúng ta có món quà tuyệt vời của trí thông minh và khả năng phát triển quyết tâmsử dụng chúng một cách tích cực, trong một ý nghĩa nào đó, chúng tasức khỏe tinh thần tiềm ẩn. Sức mạnh tiềm ẩn đến từ sự nhận thức chúng ta có tiềm năng vĩ đại.của con người Sự nhận thức này hồ như có thể thực hiện vai trò của một cơ cấu gắn liền nhằm đối trị với bất cứ khó khăn nào, dù tình trạng phải đương đầu ra sao, không mất hy vọng hay chìm đắm trong thù hận bản thân. Tự nhắc mình những phẩm tính cao quý mà ta chia sẻ với tất cả chúng sinh làm mất tác dụng của việc cứ nghĩ cho rằng mình xấu hay không xứng đáng. Nhiều người Tây Tạng thực hành điều này trong việc hành thiền thường nhật. Có lẽ đó là lý do tại sao thù hận bản thân không bao giờ có trong nền văn hóa Tây Tạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3880)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3058)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 6862)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5579)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3884)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3046)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12003)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5107)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3825)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9096)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7316)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27052)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5864)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5583)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6095)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5566)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5438)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7739)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4743)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12008)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21801)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6466)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7411)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6686)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6267)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8524)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6045)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5687)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14166)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20173)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6847)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6818)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6381)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6473)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6000)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7392)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7360)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8487)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6452)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6841)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10457)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19775)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30161)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16161)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19564)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11036)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14286)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7735)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10458)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7912)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant