Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

30. Thái Độ Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

03 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6514)
30. Thái Độ Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO

Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch

VI. TỔNG QUÁT



30. THÁI ÐỘ CỦA PHẬT GIÁO ÐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC

 - Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda


Mục đích của bài này là đem sự hiểu biết thấu đáo về tôn giáo, tính khoan dung trong tôn giáo, ý nghĩa nền tảng sâu xa của nó từ quan điểm Phật Giáo và để hiểu Phật Giáo đối với các tôn giáo khác ra sao.

Ý nghĩa sâu xa của tôn giáo tiềm ẩn là có thể gìn giữkính trọng tôn giáo của mình mà không trong một đường lối nào lại không kính trọng hay bất lịch sụ đối với tôn giáo khác. Vì mục tiêu này, chúng ta phải thiếtù lập mối hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau hợp táckhoan dung giữa tất cả những nhà làm tôn giáo hầu đạt sự hòa hợp tôn giáo.

Người ta thường nói đến khoan dung trong tôn giáo và sự quan trọng của nó, nhưng rất ít, nếu có, chỉ ra một con đường thực tiễn để đạt được sự khoan dung tôn giáo. Hy vọng, đọc kỹ bài này, độc giả có thể có được bức tranh rõ ràng về khoan dung trong tôn giáo và sẽ nỗ lực vận động khoan dung tôn giáo. Chúng ta nên cố gắng loại bỏ cái gọi là phức cảm tự tôn ưu việt hơn người, nghi kÿ lẫn nhau, thành kiến tôn giáo, những động cơ vị kỷ, hãy vì điều thiện tổng quát và đừng đề cao tôn giáo của mình. Cho nên sự hiểu thấu tôn giáo tốt hơn khoan dung tôn giáo nhiều.

Vậy, hiểu thấu tôn giáo tốt hơn khoan dung tôn giáo nhiều. Tất cả các nhà tôn giáo đều làm việc cho sự nghiệp chung giải phónggiác ngộ con người. Sự tìm cầu giải phónggiác ngộ tức sự đi tìm chân lý. Bất hạnh thay, trong chúng ta, có nhiều niềm tintu tập lố lăng được miêu tả hay diễn tả như Chân Lý, mà thực ra chúng không phải là Chân Lý. Là những tín đồ tôn giáo thực sự, chúng ta phải có can đảm và sự tin chắc để chấp nhận điều rõ ràng là một quan niệm sai lầmcố gắng sửa chữa nó cho phù hợp với khoa học và lẽ phải đồng thời đúng với những đòi hỏi của Chân Lý. Nhiệm vụ của chúng ta sẽ thất bại nếu chúng ta cứ cố bám víu vào điều mà chúng ta biết không phải là Chân Lý. Chúng ta cũng sai lầm, nếu chúng ta thực hành khoan dung tôn giáochúng ta khoan dung mà không vạch ra điều thất bại hay thiếu sót của nó không phù hợp với Chân Lý. Trong lúc tìm Chân Lý chúng ta phải loại bỏ thái độ tranh đua và phải đoàn kết tay trong tay để đạt mục tiêu cao thượng của sự hòa hợp tôn giáo cho hạnh phúc của nhân loại.

Mặc dầu Ðức Phật vạch ra rằng không có giá trị đạo lý trong nhiều sự tu tập tại Ấn Ðộ vào thời của Ngài, Ngài vẫn lịch sự khuyên bảo các tín đồ đem đồ cúng dường hay thực phẩm đến các Bà La Môn hay những người khất sĩ khác và hỗ trợ họ bất chấp họ thuộc tôn giáo nào. Ðức Phật khuyên các tín đồ không nên làm đau đớn hay gây thương tích cho thầy tu Bà La Môn hay một Bà La Môn. Nơi đây Ngài coi những nhà sưBà La Môn là những người đạo giáo. Lại nữa, Ðức Phật nói nếu một người lừa đảo một Bà La Môn, hay một nhà sư hay một người khất sĩ, bằng cách nói dối, đó là nguyên nhân người ấy sẽ bị đe dọa. Như vậy, khuyên các tín đồ của Ngài theo đường lối ấy, Ðức Phật đối đãi với tất cả không chút kỳ thị.

Mục đích của Phật Giáo là hướng dẫn mọi người sống một cuộc đời cao thượng không làm hại bất cứ ai, trau dồi các đức tính nhân đạo nhằm duy trì phẩm giá con người, tỏa chiều lòng lương hảo rộng mở không chút kỳ thị, rèn luyện tâm tránh tội lỗi, thanh tịnh hóa tâm nhằm đạt hòa bình và hạnh phúc.

Phật Giáo là một tôn giáo dạy người ta "sống dĩ hòa vi quý". Trong lịch sử thế giới, không có một bằng chứng nào cho thấy những người Phật Tử can thiệp hay gây tổn thất cho bất cứ tôn giáo nào trên bất cứ nơi nào trên thế giới với mục đích truyền đạo. Người Phật Tử không coi sự hiện hữu của các tôn giáo khác làm trở ngại cho sự tiến bộ và hòa bình của thế giới.

Thông diệp của Ðức Phật là lời mời tất cả nắm tay nhau trong tình huynh đệ cùng chung một mục đích làm việc trong sức mạnhhòa hợpphúc lợihạnh phúc nhân loại. Ngài không chọn ai, và cũng không coi Ngài là người được chọn.

Những nhà truyền giáo đầu tiên của Ðức Phật là các vị A La Hán - những người toàn hảo và thánh thiện. Họ là những con người cao thượng, do chính nỗ lực từ bỏ trần tục, huấn luyện tinh thần họ trở thành bậc toàn thiện. Trước khi gửi các đệ tử của Ngài đi, Ngài khuyên họ theo đường lối sau:

"Này các vị tỳ-kheo, hãy tiến lên cho sự lợi lạc cho nhiều người, cho phúc lợi nhiều người, từ bi cho thế giới; đem điều thiện, lợi lạc, và phúc lợi của cho chư thiên và người. Này các tỳ kheo hãy tuyên bố học thuyết tối thượng, giảng dạy một đời sống thánh thiện, toàn hảo và thanh tịnh."

Theo lời khuyên trên, Ðức Phật muốn nói cho ta biết sự khác biệt giữa thiện và ác. Ngài muốn dạy con người làm sao dẫn đến lối sống chính đáng, hạnh phúcan lạc. Ngài không bao giờ khuyên các đệ tử của Ngài đi đổi đạo người ta từ đạo này sang đạo nọ. Ý kiến của Ngài về đổi đạo là tiến dẫn đường lối sống đạo lý chính đáng và cao thượng.

Ðức Phật không phê bình hay chỉ trích bất cứ một tôn giáo nào, thay vào đó Ngài soi sáng mọi người bằng cách chỉ cho họ cái phù phiếm khi đi vào những cực đoan của sự tự hành xác, sự đam mê lạc thú (nhục dục) và tránh những dị đoan và những sự tu tập vô nghĩa dưới danh nghĩa tôn giáo.

Tôn Giáo Thực Sự

Về câu hỏi thế nào là một tôn giáo thực sự, Ðức Phật đã đưa ra câu trả lời phóng khoáng là ở bất cứ nơi đâu giáo lý về Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo được thấy, và nơi nào mà ta có thể tìm thấy những tín đồ thuần túy đạt được sự mở mang tinh thần, nơi đó là một tôn giáo thực sự. Ngài không nói chỉ có Phật Giáo là một tôn giáo thực sự, nhưng Ngài cổ võ con người chấp thuậnkính trọng sự thực bất kỳ nơi đâu. Ðó có nghĩa là chúng ta không nên lơ là giáo lý hữu lý của các tôn giáo khác. Một thái độ như vậy cho thấy rõ Ðức Phật không bao giờ có thành kiến với các tôn giáo khác và cũng chẳng bao giờ cố ý độc quyền chân lý tôn giáo. Ngài chỉ muốn vạch ra một thứ - Chân Lý, và tất cả giáo lý của Ngài đều căn cứ trên Tứ Diệu Ðế- đó là khổ hay bất toại nguyện, nguyên nhân của khổ, chấm dứt khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt khổ.

Bất cứ lúc nào khi Ðức Phật khuyên nhủ các đệ tử của Ngài hành động hay tránh xa thứ gì, Ngài luôn luôn đòi hỏi họ làm như vậy không chỉ cho phúc lợihạnh phúc cho chính họ mà còn cho phúc lợihạnh phúc của người khác. Ngài nói: "Nếu điều đó tốt cho bạn và cho người khác, nên làm, nếu điều đó hại cho bạn và hại cho người khác, không nên làm".

Như một nhà cải cách xã hội, Ðức Phật đã tìm ra gốc rễ sâu xa của đau khổ nhân loại - tham, sân và si, ăn sâu vào tâm khảm con người. Cho nên chỉ do tâm con người mà sự cải cách thực sự mới có thể có hiệu quả. Những cải cách đặt ra trên thế giới bên ngoài bằng sức mạnh chỉ có thể tồn tại một thời gian ngắn, nhưng nếu chúng nẩy sinh từ sự thay đổi trong tâm thức con người mới lâu dài hơn.

Những khuynh hướng tham sân và si cuối cùng phải được kh?c phục và thay thế bằng sức mạnh của rộng lượng, từ áitrí tuệ. Chỉ do sự thanh tịnh tinh thần mới có thể đạt được hòa bình và hạnh phúc một cách hữu hiệu nhờ vào tôn giáo.

Phật Giáo trở thành đoàn truyền giáo đầu tiên mà thế giới biết đến. Gần 2300 năm trước đây, nhờ những nỗ lực cao thượng của Hoàng Ðế A Dục trị vì Ấn Độ (268 - 305 trước Công Nguyên) - khi tới đỉnh cao của quyền uy trần tục, đã từ bỏ lưỡi gươm bạo lực, đem hết thì giờ vào việc nâng cao Phật giáovăn hóa Phật Giáo. Ngài gửi các nhà truyền giáo, kể cả người con trai và người con gái của Ngài, đến khắp tất cả xứ sở được biết như thế giới thời đó để truyền đạt thông điệp của Ðức Phật. Ðúng theo truyền thống cao thượng của Ðức Phật, Ngài không bao giờ quên dặn dò những nhà truyền giáo là không nên chỉ trích hay coi thường tôn giáo khác trong khi thuyết giảng về Phật Giáo. Lời khuyên này được khắc vào bia đá A Dục bằng chữ Bà La Môn - những di tích này vẫn còn được thấy ngày nay tại Sarnath, Benares tại Ấn Ðộ.

Những câu sau đây trong sắc lệnh của nhà Vua:

"Ta không nên chỉ tôn vinh tôn giáo riêng của mình và chì trích các tôn giáo khác. Ta nên kính trọng tôn giáo của những người khác vì lý do này hay lý do nọ. Làm như vậy, ta đã giúp đỡ tôn giáo của chính mình phát triển và cũng là giúp ích các tôn giáo khác. Hành động ngược lại ta đã đào huyệt cho tôn giáo của chính mình và cũng làm hại tôn giáo khác. Bất cứ ai tôn vinh tôn giáo mình và chỉ trích tôn giáo khác, tưởng rằng làm như vậy là sùng bái tôn giáo mình nghĩ rằng "ta sẽ tôn vinh tôn giáo của chính ta". Nhưng ngược lại, chính ta đã làm tổn thương nghiêm trọng tôn giáo của chính ta. Nên hòa thuận thì tốt hơn: Hãy lắng nghe tất cả, và sẵn sàng nghe với thiện chí những học thuyết giảng dạy bởi các tôn giáo khác."

Các dân tộc Á Châu hẳn có nhiều lý do tri ân vị vua vĩ đại này. Là nhà cầm quyền, Ngài làm bổn phận hậu thuẫn mọi tôn giáo hiện hữu không chút kỳ thị.

Hòa Hợp Tôn Giáo

Nguyên tắc tôn giáo dành cho toàn thể nhân loại. Nếu bất cứ nhóm nào trong nhân loại không theo những đức hạnh vĩ đại dạy bởi tôn giáo - như nhân từ, kiên nhẫn, khoan dunghiểu biết, quả là khó khăn cho người khác sống hòa bình.

Lẽ tự nhiên người xảo quyệt và ích kỷ lợi dụng bất cứ loại đức hạnh nào, nhưng, hãy để tất cả những nhà tôn giáo ngày nay, ghi nhớ rằng những kẻ chiến đấu và làm đổ máu dưới danh nghĩa tôn giáo, đã không đi theo nguyên tắc tôn giáo và không phục vụ chính nghĩa của nhân loại. Họ chiến đấu cho lợi lạc cá nhân riêng tư hay quyền lực dưới danh nghĩa tôn giáo. Những người thực sự tu tập không có lý do gì dùng võ lực, họ giải quyết những khó khăn qua đường lối hòa bình. Một tôn giáo thực sự không bao giờ tán đồng bất cứ một hình thức bạo động nào trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ðồng thời, không nên gây kỳ thị chủng tộc khi mà chúng ta tu tập tôn giáo của chúng ta. Phật tử sống và làm việc với những người tôn giáo khác mà không có một hành vi thù địch. Không những thế, người Phật Tử chưa bao giờ làm đổ máu giữa những giáo phái khác biệt hay tôn giáo khác vì lợi ích tôn giáo.

Ngày nay vì những hành động tàn bạo đã được thực thi và đang tiếp diễn (đến một mức nào đó) dưới danh nghĩa tôn giáo, nhiều người đã trở nên vỡ mộng khi nói đến từ ngữ "tôn giáo" Duy vật chủ nghĩa, đạo đức giả, và cuồng tín đội lốt dưới chiêu bài tôn giáo, đã gây nên những thảm họa to lớn trong lịch sử nhân loại. Giá trị thực sự của tôn giáo đã nhanh chóng biến mất từ tâm con người vì họ đang tìm cầu thuyết huyền bí và hoang đường. Những tôn giáo vĩ đại đã được thiết lập trên thế gian đang phân tán thành nhiều vô số dạng thức; và thậm chí một số người đã ra mặt chế diễu tôn giáo. Thời điểm đã tới cho những nhà tôn giáo ngày nay ngồi lại cùng nhau để tiến dẫn giá trị đạo lý đúng theo toàn cảnh của nó, thay vì chỉ lập luận và cãi vã về những khác biệt trong lý tưởngthần thoại tôn giáo .

Tôn giáo không nên bị giới hạn chỉ vào thờ cúngcầu nguyện. Tôn giáo không phải chỉ là một phương tiện trên môi mép mà là một phương tiện trung gian thực tiễn cho con người hành động vô hại, phục vụ nhân loại, làm điều thiện, và đạt giải thoát, hòa bình và hạnh phúc thực sự.

Tôn giáo khác nhau có thể có niềm tinquan điểm khác nhau về sự bắt đầu và chấm dứt cuộc đời, cùng những giải thích dị biệt về sự giải thoát tối thượng. Nhưng chúng ta không nên tiến tới những vấn đề bất hòa ấy để tạo mâu thuẫn, đối đầu, xung đột, sân hận và hiểu nhầm.

Có quá thừa đủ những đức hạnh thông thường thuộc lãnh vực lý thuyếtthực hành mà các nhà tôn giáo có thể giới thiệu dưới danh nghĩa tôn giáo để người dân có một lối sống chính đáng, hòa bình và có văn hóa.

Chúng ta không cần coi thường hay khiển trách tôn giáo này tôn giáo kia. Nếu chúng ta làm như vậy, chúng ta dọn đường cho những nhóm chống tôn giáo đang chờ đợi để chế diễuchỉ trích tất cả những tôn giáo. Chúng ta không nên hành xử như vậy cho thấy thái độ thù nghịch với những người cùng làm tôn giáo. Nếu chúng ta làm như vậy, người ta sẽ nói tôn giáo khuyến khích nhân loại chia rẽ.

Người Phật Tử không bị cấm không được tỏ niềm kính trọng với các đạo sư tôn giáo khác, họ cũng không bị hạn chế gì trong việc đi thăm các nơi thờ phượngtham dự các khóa lễ không phải là Phật Giáo. Họ cho thấy họ hợp tác hoàn toàn trong khi vẫn giữ nguyên tắc căn bản Phật Giáo.

Phật Giáo khuyến khích sự hợp táchiểu biết giữa những giáo phái. Theo quan điểm Phật Giáo, nhãn hiệu tôn giáo không phải là khía cạnh quan trọng nhất để một người được coi là có đạo lý, mà là một người sống một cuộc đời đáng kính không hại ai mới có thể coi là người có đạo lý.

Những ai thấy những sai lầmphê bình Phật Giáo có thể làm như vậy trên một mức độ ở bề mặt thôi. Họ có thể phê bình những tập tục truyền thống, những cung cách và tục lệ, nhưng không thể công kích giáo lý thiết lập bởi Ðức Phật, vì những giáo lý ấy lúc nào cũng tốt trong tất cả mọi thời gian. Họ có thể đem bất cứ một giáo lý nào ra xem xét nếu họ muốn trắc nghiệm.

Phương pháp sử dụng để trình bày giáo lý của Ðức Phật rất hòa bình và hữu lý. Ðức Phật kêu gọi qua lẽ phảikinh nghiệm. Giáo lý được trính bày trong sáng, đơn giản rất ấn tượng, thoát khỏi sự hẹp hòi và cuồng tíntính chất quốc gia trong tôn giáo. Những giáo lý ấy sản sinh người trong sạchđiềm đạm. Phương pháp trình bày này quét sạch nghi kÿ và niềm tin dị đoan. Như vậy giáo lý của Ðức Phật thuyết phục tâm can và đầu óc những người tha thiết tìm cầu chân lý. Thái độ khoan dunghiểu biết của Phật giáo đã thuyết phục nhiều nhà tư tưởng vĩ đại, triết gia, duy lý, và những nhà tự do tư tưởng và cả đến những người theo thuyết 'không thể biết' đều cảm nhận Phật Giáo là một lối sống hòa bình.

Theo Ðức Phật, con người tự chia rẽ vì lòng ích kỷ to lớn. Khi tính ích kỷ này bị khuất phục, sự tương quan lành mạnh của nhân loại sẽ phát triển. Sự tìm cầu hòa bình và đường lối sống hòa hợp bắt đầu từ bên trong chứ không phải bên ngoài.

Nếu những nhà tôn giáo ngày nay không thể cùng ngồi lại với nhau để làm việc trong hòa hợp, không kỳ thị và thù nghịch lẫn nhau, hòa bình mà ta nói chỉ ở trong giấc mộng mà thôi.

Là những người làm tôn giáo chân chínhchân thành, xin hãy nắm tay nhau để củng cố nỗ lực để xóa bỏ tất cả những gì mâu thuẫn và kỳ thị trong giáo lý của chúng ta và hãy cố gắng đến mức tối đa đưa ra những giá trị tinh thần chungnơi tôn giáo vì lợi íchhạnh phúc của nhân loại bất kể đến chủng tộctín ngưỡng. Chúng ta nên nhớ rằng tôn giáo hiện hữu cho lợi ích của nhân loạitôn giáo không nên bị sử dụng sai lầm một cách cuồng tín trong bất cứ đường lối nào để đạt lợi dưỡng cá nhân hay vinh quang cho chính mình.

Hãy Cùng Nhau Ðoàn Kết

Tất cả những nhà tôn giáo doàn kết, không sử dụng quân phiệt tôn giáo. Xin hãy để cho họ chấm dứt tất cả những tàn bạo và giết chóc dưới danh nghĩa chiến tranh. Xin hãy để cho họ đoàn kết để cho con người tự do tìm tôn giáo tùy theo niềm tin sở thích của người đó. Hãy để cho họ đoàn kết để loại đi tôn giáo độc quyền. Xin hãy để cho họ đoàn kết để không sử dụng tôn giáo chỗ chợ búa để đổi đạo người khác bằng cách áp dụng các phương pháp đáng nghi ngờ. Xin để cho họ đoàn kết để kính trọng niềm tin của các đạo khác và những sự tu tập chừng nào mà những sự tu tậpniềm tin ấy vô hại và không lừa dối dân chúng. Xin hãy để cho họ đoàn kết để quét sạch thái độ thách đố của sự cạnh tranh tôn giáo không lành mạnh, xin hãy để những nhà tôn giáo đoàn kết để loại bỏ những tệ nạn và lề thói vô luân thường thấy trong xã hội hiện đại. Xin cũng để cho họ đoàn kết để đưa ra một lối sống ôn hòa giữa những tín đồ và khuyên những người này đừng đi đến cực đoan.

Những vị khai sáng của mỗi tôn giáo đều có mục tiêu căn bản là đoàn kết cho nhân loại - để nuôi dưỡng hòa hợp, thiện chí, và hiểu biết giữa tất cả các dân tộc trên thế giới.

Theo bước chân các vị khai sáng, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo, cũng đã tìm cách phát triển lòng kính trọng sâu xa đối với niềm tin của người khác. Bất hạnh thay, tuy nhiên, một số tín đồ của tôn giáo, vì lý do ích kỷ, và do sự bất-khoan-dung và tâm địa hẹp hòi, đã chống lại cốt tủy thực sự của Tôn Giáo và đã tạo nên hỗn loạn, quan niệm sai lầm, kỳ thị và bất-khoan-dung.

Chúng tôi tha thiết hy vọng bằng cách nhận thức được những sự kiện này, nhân loại một ngày nào đó sẽ đoàn kết trong tình huynh đệ tôn giáo để cùng làm việc cho hạnh phúc của tất cả.

Trong phân tách cuối cùng, sự kính trọng tôn giáo của người khác nẩy sinh từ lòng tin tưởng mà ta có trong sức mạnh thực chất của tôn giáo mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28166)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6667)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8775)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9283)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15363)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8235)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8664)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16687)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26924)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18631)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15612)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22493)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19418)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18298)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16171)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25584)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12853)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37840)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20066)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10698)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10015)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10538)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10362)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11022)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15188)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10829)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19655)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11682)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10757)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11222)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10093)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10550)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11533)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10873)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11385)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12134)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11033)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12990)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17744)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15188)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15663)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10970)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12085)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11030)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21799)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12075)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9166)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20155)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17232)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10066)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant