Luận tạng
Abhidharma,
Luận tạng, cũng được gọi là Thắng pháp tập yếu luận,
phiên âm theo Hán Việt là A-tì-đạt-ma. Gọi là Thắng pháp
vì kinh ấy vượt lên trên mọi pháp; cũng được gọi là
Vô tỉ pháp vì pháp ấy không gì có thể so sánh. Nội dung
chủ yếu của Luận tạng là triển khai các lời giảng của
Ðức Phật ở mức độ cao rộng hơn.
Lai lịch Luận tạng
Như đã nói ở phần trên, tám tháng sau khi Ðức Phật nhập diệt, diễn ra đại hội tập kết kinh điển lần thứ nhất. Chư tăng gồm 500 vị hội họp tại thành Rajagriha (Vệ Xá) dưới quyền chủ tọa của Ma-ha Ca Diếp (Kassyapa). Tất cả cùng kết tập theo lối tụng đọc thành ba bộ kinh, gọi là Tam Tạng: Kinh, Luật và Luận. Bộ Kinh tạng do A-nan-đà kết tập từ những bài giảng của Ðức Phật. Luật tạng do Ưu-ba-ly (Upali) kết tập từ những giới luật tu trì do Ðức Phật đặt ra cho hàng xuất gia.
Theo truyền thuyết, Luận tạng do đích thân Ca-diếp kết tập, cũng từ những bài giảng của Ðức Phật, chuyên về các đề tài triết học và tâm lý học của Phật giáo. Về sau, nhiều nhà Phật học cho rằng lần kết tập thứ nhất ấy chỉ hình thành Kinh tạng và Luật tạng thôi, còn Luận tạng mãi khoảng ba thế kỷ sau khi Ðức Phật vào Niết Bàn và Phật giáo bị chia thành nhiều bộ phái khác nhau cùng văn học abhidharma phát triển mới hình thành.
Lần
kết tập sau cùng của Luật tạng xảy ra đâu đó từ khoảng
năm 400 tới năm 450 SCN. Trong thời kỳ đầu của Phật giáo,
mỗi trường phái Phật giáo có một bản Luận tạng riêng
của mình, tuy thế, bản đầy đủ còn giữ được cho tới
nay là của Nhất thiết hữu bộ, bằng tiếng Hoa và tiếng
Tây Tạng, và của Thượng tọa bộ bằng tiếng Pali.
Quá trình của các dị bản
Luận tạng là gốc của mọi trường phái, và được dùng để luận giải các bài trong Kinh tạng. Luận tạng tìm cách cung cấp một khung sườn lý thuyết thuần túy và tổng thể cho Phật Pháp (Dharma), để có thể trình bày Pháp theo cung cách sáng sủa và dễ lĩnh hội. Ðiều này tương phản với Kinh tạng có nội dung gồm toàn những sưu tập về lời thuyết pháp đặc thù của Ðức Phật, được đặt trong bối cảnh đối thoại của các cuộc gặp gỡ cá biệt. Và vì Kinh tạng được kể lại sau khi Ðức Phật từ trần, nên khởi đầu bộ kinh thường có câu tương truyền là của A-nan-đà: ‘Tôi nghe như vầy...’
Song
song với tường trình của mỗi người, tăng đoàn Phật giáo
cùng nhau thu thập các bản danh sách như một dàn trải quá
trình hệ thống hóa trước đó một số lượng lớn lao những
lời giảng riêng cho cá nhân để hình thành truyền thống
tụng đọc thời sơ khởi. Tới nhiều lần thành văn, đâu
đó khoảng giữa thế kỷ thứ ba TCN và thế kỷ thứ nhất
SCN, mỗi trường phái lại có một bản riêng có lẽ lý do
chính là bởi lối tụng đọc, bối cảnh văn hóa và sự triển
khai của các đại luận sư của mỗi bộ phái, thế nhưng
phần lớn các dị bản ấy đều bị thất lạc. Như đã nói
trên, nay còn hai bản của hai bộ phái lớn.
Ý nghĩa của Pháp
Pháp, Dharma, Dhamma, phiên âm Hán Việt thành Ðạt-ma hay Ðàm-ma, là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo. Xét chung Tam tạng, Pháp có ít nhất năm nghĩa:
1. Qui luật bao trùm vũ trụ, của sự tái sinh do tác động của nghiệp;
2. Giáo Pháp của Ðức Phật mà người Phật giáo nguyện trọn đời qui hướng.
3. Giới luật dành cho cuộc sống tu hành;
4. Sự thể hiện thể tính của vạn vật vì các vật cá thể không có bản ngã cố hữu và cố định: vô ngã.
5. Những thành phần lập thành thế giới hiện hữu, thay thế cho tư tưởng ‘vật chất’ và ‘nguyên tử’ của triết học Tây phương. Trường hợp này, pháp không viết hoa và dùng với số nhiều: dharmas.
Nói tóm lại, có thể hiểu Pháp là: ‘Tất cả những gì có đặc tính của nó — không khiến ta lầm với cái khác — có những khuôn khổ riêng của nó để nó làm phát sinh trong đầu óc ta khái niệm về nó’ (theo Phật học Ðại từ điển của Ðinh Phúc Bảo, lời dịch của Thích Nhất Hạnh – trích theo Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, sách đã dẫn).
Riêng thuật ngữ Pháp trong Luận tạng thì như đã nói ở
trên, liên quan tới những triển khai các chủ đề triết học
và tâm lý học, đặc biệt về tâm và các hiện tượng của
tâm.
Không gì thật hơn Pháp
Ở phần trước, chúng ta đã thấy lời giảng căn bản về vô ngã rằng hết thảy những vật phức hợp đều thiếu sự hiện hữu cố hữu; chúng liên tục là đối tượng của biến đổi. Ở cấp độ qui ước, chúng ta thấy cá thể con người, bàn, ghế và tất cả các đối tượng khác của kinh nghiệm — các khách thể. Tuy thế, ở cấp độ tối hậu của chân lý, chúng không hiện hữu một cách tách biệt; chúng chỉ là một phương thế qui ước tụ hội với nhau trong cái giống như thể ‘một bó’, ‘những miếng’, ‘những mảnh’ đa dạng của cái mà chúng làm nên.
Khi
tiếp tục quá trình phân tích các vật phức tạp thành những
thành phần cấu thành của chúng thì đạt tới cấp độ tận
cùng, ở đó các vật không thể bị phân chia thêm nữa. Chúng
là những khối giản dị xây dựng sự sống – các dharmas.
Luận tạng xem các dharmas là thật một cách tối hậu trong
mức độ các thực thể phức tạp thì không thật.
Thử nêu một nan đề
Nhìn theo viễn cảnh hiện đại, có một nan đề thú vị ở ngay tâm điểm của toàn bộ quá trình phân tích các dharmas.
1. Khi quá trình phân tích ấy tiếp tục, bạn không bao giờ với tới điểm ở đó bạn chắc chắn mình sẽ có các khối cấu thành rất căn bản. Thí dụ, có một thời điểm các nhà vật lý học xem nguyên tử (atom) là căn bản, thế rồi tới thời điểm xem các hạt bên trong nguyên tử (subatomic particles) là căn bản, và ngày nay tới thời điểm các hạt quác hay vi lượng (quark: một trong những phần rất nhỏ mà người ta cho là hợp thành các hạt căn bản). Rồi trong tương lai, tới cái gì nữa? Liệu có thể nói rằng hạt quác là không thể phân chia? Rõ ràng về mặt thuần lý thuyết, không thể nói rằng quá trình phân tích là có giới hạn.
2. Nói chung, Luận tạng cho ấn tượng rằng thực tại ‘nằm với’ các dharmas chứ không với các các thực thể phức tạp do các dharmas làm thành. Như thế, qua phân tích, ta thấy các vật đúng như chúng thực sự là chúng chứ không phải như chúng được tri giác một cách qui ước. Nhưng ở đây có vấn đề rằng chúng ta có thể không bao giờ biết được mình có với tới thực tại ấy hay không. Lý do vì về mặt thuần lý thuyết, các dharmas luôn luôn có thể bị chia và chia ra nữa, thành các dạng thức thậm chí huyền ảo tế vi hơn. Do đó, thực tại ấy vẫn là lý thuyết, không là thật sự. Nhưng giác ngộ tức là nhìn các vật đúng như chúng thật sự là chúng. Do đó, đi theo tính luận lý của luận cứ này, giác ngộ chắc chắn luôn luôn là lý thuyết, không bao giờ là thật sự. Có một cách để thoát ra khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan này là nói rằng giác ngộ là vấn đề trải nghiệm thực tại và rằng giác ngộ không nhất thiết giống với sự phân tích thực tại vì ta vẫn có thể trải nghiệm cái gì đó trong khi không cần phải cóù khả năng phân tích mọi mặt của nó một cách cực kỳ rốt ráo.
3. Theo sự tương liên nối kết, các vật phát sinh trong tùy
thuộc vào các điều kiện. Thực tại của chúng đã không
cố hữu mà còn tùy thuộc vào các điều kiện ấy. Nếu mỗi
vật chỉ trở thành chính nó trong nối kết với cái toàn
bộ — vì về mặt lý thuyết, mọi vật này ảnh hưởng lên
mọi vật khác, thế thì thực tại ‘nằm với’ cái toàn
bộ và ở trong quá trình qua đó cái toàn bộ tác động cho
các vật cá biệt phát sinh, chứ không ‘nằm với’ các vật
cá biệt. Nếu lập luận này là đúng, thì việc phân tích
các dharmas để am hiểu thực tại có chút nào đó giống với
việc đếm các bytes cá thể của bộ nhớ trong máy điện
toán để hiểu chương trình phần mềm ấy, thí dụ ta kiểm
tra thấy chương trình Microsoft Word chiếm khoảng 80 MB, và như
thế ta nghĩ mình đã hiểu chương trình ấy là gì.
Nên hiểu theo cách khác
Có lẽ nên nhìn toàn bộ tiến trình phân tích mang tính Luận tạng như một quảng diễn cá biệt của Phật giáo về câu chuyện trong Chandogya Upanishad về chàng thanh niên Cvetaketu bửa hạt vả để cuối cùng, đi tới điểm bản ngã đồng hóa với yếu tính vô hình (xem chương 1).
Phân tích vào sâu các dharmas là cuộc truy tầm thực tại. Tuy thế, điểm rất riêng biệt của Phật giáo là kết luận rằng mọi sự được ‘đặt vào nhau’ là sự trống rỗng — không tính — của tự tồn tại, và chúng chỉ là một phức hợp, do đó, chúng có khả năng bị biến đổi.