Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sứ mệnh của Đạo Phật

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6652)
Sứ mệnh của Đạo Phật

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Sứ mệnh của Đạo Phật

I. Ý NGHĨA

Hiểu theo sự tướng, Đạo Phậtcon đường, là phương pháp tu hành đưa con người đến mục đích giác ngộgiải thoát. Giác ngộ đối nghĩa với vô minh, giải thoát đối nghĩa với trói buộc. Chúng sanh vô minh, chấp thân tâm là thật, chấp các pháp là thật nên dính mắc với trần cảnh; từ đó bị phiền não trói buộc, tạo nghiệp và quanh quẩn trong sáu đường sinh tử. Người tu khi giác ngộ thân tâm cảnh đều duyên hợp hư huyễn, các Ngài vẫn sống vẫn làm nhiều việc lợi ích cho đời, nhưng hoàn toàn tự do tự tại. Như thế, nhờ giác ngộ nên giải thoát - giải thoát khỏi phiền nãocuối cùng, khỏi luân hồi. Đạo Phật được ví như ngọn đuốc soi đường cho những kẻ còn lạc lối trong rừng rậm vô minh, hoặc như chiếc thuyền đưa người qua biển khổ, đến bến bờ an lạc.

Hiểu theo lý tánh, Đạo Phật là tánh giác sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Tánh giác là thể chẳng sanh chẳng diệt ở ngay thân ngũ uẩn sanh diệt. Chư Phật đã nhận ra và hằng sống với tánh giác chân thường, chúng sanh cũng có tánh giác nhưng bị phiền não tham sân si che lấp, như vàng trong quặng, như sóng chìm nổi trên mặt biển. Thể tĩnh lặng của biển luôn hiện hữu trong tướng biến động của sóng. Do có gió nên mặt biển nổi sóng, và khi gió lặng, sóng lại trở về với biển cả mênh mông. Cũng vậy, chúng sanh đang trong thể tánh tịch chiếu của biển chân như, do gió nghiệp thổi mà sinh ra thân năm uẩn, theo đó tiếp tục tạo nghiệp rồi thọ thân mãi mãi không cùng. Hơn thế, chúng sanh lại quên thể tánh hằng tri mà nhận lầm tâm huyễn hóa là mình, như người nhận sóng mà quên nước. Muốn trở về nước, phải ngay nơi sóng mà nhận; muốn trở về tánh giác chân thường, phải ngay từ thân tâm vô thường. Tâm thức mê mờ của phàm phu rất gần với tâm Bồ-đề của các Bậc Giác Ngộ, chỉ cách nhau ở một niệm quên hay nhớ mà thôi.

Chúng sanh quên tánh giác vì mãi chạy theo thức tình phân biệt, theo vọng tưởng điên đảo. Ví như mặt hồ có sóng lớn, ánh trăng không hiện rõ trong nước; nhưng khi gió lặng, mặt nước yên tĩnh, bóng trăng sẽ hiện sáng ngời. Chúng ta tu là làm lặng yên gió niệm phân biệt. Niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thiền tập đến trạng thái tịch lặng và thường rõ biết, người tu nhận ra Niết bàn tự tánh ở ngay đương xứ - bây giờở đây.

Như ta thấy, Đạo Phật không hề có những biểu hiện thần quyền hoặc chủ trương những hình thức mê tín dị đoan. Đức Phật là Bậc Đạo Sư tức vị Thầy dẫn đường, không phải là thần linh ban phước giáng họa. Chúng sanh có quyền chọn lựa đường hướng cho mình, hoặc đi theo Đức Phật thì sẽ được an lạc giải thoát như Ngài, hoặc quay lưng theo hướng khác thì cũng có quyền tạo nghiệp và tự thọ nhận quả báo tương ứng. Chính Đạo Phật đã trao cho tất cả chúng sanh quyền tự do và quyền bình đẳng tuyệt đối khi vị Giáo chủ nhiều lần tuyên bố: “Chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, cũng là chủ thọ nhận nghiệp báo” “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.

II. LÝ THUYẾT

Giáo lý nhà Phật gồm tam tạng kinh điển (Kinh-Luật-Luận), là cả một gia tài đồ sộ. Kinh là những lời dạy của Đức Phật thuyết giảng hoặc do các đệ tử của Ngài tuyên thuyết và được Ngài ấn chứng. Luật là những cấm giới do Đức Phật chế ra để ngăn dứt điều ác, phát triển nghiệp lành. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế chưa có chữ viết chỉ truyền khẩu, nên dần dần không thể không có những điều sai lạc. Đến nay một số giáo điều do người sau đặt ra nhưng lại ngụy tạo lời Phật dạy; hoặc ngược lại, có người chủ trương sai lầm cho rằng kinh điển Đại thừa không phải do Đức Phật thuyết giảng. Điều này làm nhiều Phật tử hoang mang không biết tin vào đâu, thậm chí rơi vào tà kiến mê tín. Vì thế, nhà Phật có một thước đo để phân định pháp nào là đúng chánh pháp. Thước đo ấy gọi là Pháp ấn.

“Ấn” nghĩa đencon dấu, dùng chứng thực uy quyền của vua quan. “Pháp ấn”con dấu của Đức Phật, dùng để chứng thực đâu là giáo lý từ kim khẩu Đức Phật thuyết ra. Với trí tuệ vô sư xuất thế, Đức Phật đã khám phá ra chân lý tuyệt đối chi phối cả vũ trụ vạn hữu cùng những phương pháp đoạn tận phiền não, thoát ly sinh tử. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa độ sanh, Ngài đều chỉ dạy cho đệ tử theo tinh thần này. Và do vậy, nếu có một lý thuyết nào không mang được ý nghĩa như thế, thì đó không phải là lời dạy của Đức Phật.

Pháp ấn gồm ba phân loại:

- Tứ pháp ấn.

- Tam pháp ấn.

- Nhất pháp ấn.

* Tứ pháp ấn

1. Vô thường: Tất cả mọi loài vật, từ hữu tình đến vô tình, từ lớn lao như toàn thể vũ trụ đến tí hon như những tế bào đều thay đổi trong từng sát-na. Con người vô thường theo tiến trình sinh lão bệnh tử, các pháp có sinh trụ dị diệt, vũ trụthành trụ hoại không.

2. Khổ:vô thường nên không một chúng sinh nào thoát khỏi đau khổ, trong đó nỗi khổ luân hồi là đệ nhất. Cụ thể hơn, Đức Phật dạy rõ về tám loại khổ: Sanh - Già - Bệnh - Chết - Cầu mong không toại nguyện - Thương yêu phải xa lìa - Oán thù mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng.

3. Không: Các pháp đều do nhân duyên tập hợp mà hình thành, không có pháp nào tự nó hiện hữu. Vì do duyên hợp nên sự hiện hữu ấy chỉ là giả tạm, thật sự bản chất của các pháp là không. “Không”thể tánh cả vạn pháp, còn hiện tượnggiả có.

4. Vô ngã: Vì các pháp do duyên hợp nên không đồng nhất và không có một chủ thể độc lập. Các pháp cũng vô thường nên không phải cố định. Không có chủ tể, không đồng nhất và không cố định nên các pháp đều vô ngã.

* Tam pháp ấn

1. Chư hành vô thường: Đã nói ở trên.

2. Chư pháp vô ngã: Vô thườngVô ngã là hai pháp ấn thuộc Tục đế, là chân lý chi phối mọi sự vật hiện tượngvạn hữu trong cả ba cõi.

3. Niết bàn tịch tịnh: Pháp ấn thứ ba thuộc Chân đế, là chân lý xuất thế gian. Hai đặc tính của Niết bànthanh tịnh và thường tri, tức tĩnh lặng mà hằng rõ biết. Niết bàn không phải là một cõi giới bên ngoài, có thể đạt đến khi nhắm mắt lìa đời, mà là tự tánh bổn tịch bổn tri của chính mình. Khi nhận rathẩm thấu chân lý vô thường vô ngã của muôn pháp, người tu thoát ly mọi khổ não, xoay lại soi sáng chính mình, trở về Niết bàn tịch tịnh tự tâm.

* Nhất pháp ấn

Khi nhận thấy trình độ tâm linh của chư đệ tử đã có thể lãnh hội chân lý tối thượng, Đức Phật mới thuyết giảng về Nhất tâm chân như, thuộc Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế, chỉ rõ con người chân thật thường hằng ở mọi chúng sanh. Con người chân thật ấy không có hình dáng nên không hề sanh diệt, không có tên nên được đặt rất nhiều tên: Chân như, Phật tánh, Pháp thân, Bản lai diện mục… Trở về hằng sống với con người chân thậtmục đích cuối cùng của người tu, và cũng là bản hoài chư Phật khi thị hiện nơi đời.

Như ta đã thấy, không có lời dạy nào của Đức Phật đề cập đến việc giải trừ sao hạn, coi hướng, coi quẻ, cùng những hình thức cúng tế thuộc tín ngưỡng dân gian. Mặt khác, giáo lý nhà Phật cũng không phải là một nền Triết học. Triết học nằm trong phạm vi của Hữu sư trí, trí tuệ có được nhờ học hỏi thu lượm từ bên ngoài, từ người khác. Trái lại, Phật pháp được tuyên thuyết bằng Vô sư trí của một Bậc Giác ngộ, tức trí tuệ phát sinh trong thiền định, khi tâm hoàn toàn vắng bặt mọi vọng tưởng phân biệt đảo điên. Đức Phật không nói những gì Ngài suy đoán, mà chỉ nói những gì Ngài đã thấy rõ bằng Tuệ nhãn, Pháp nhãnPhật nhãn. Chính vì thế giáo lý nhà Phật là sự thật muôn đời không thay đổi, là chân lý siêu việt cả không gianthời gian.

III. THỰC HÀNH

Lý thuyết như đôi mắt sáng, thực hành như đôi chân khỏe. Muốn đến nơi đến chốn, con người phải có mắt sáng để thấy đường đi và chân khỏe để tiến bước. Mắt và chân là hai điều kiện chủ yếu, tiên quyết và không thể thiếu cho một kẻ lữ hành.

Người Phật tử là một hành giả tâm linh, muốn trở về quê hương muôn thuở thì cần áp dụng giáo lý vào thực hành. Thực hànhchuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý, chuyển hóa tự tâm. Tùy căn cơ, trình độsở thích, mỗi người tự chọn cho mình một pháp môn thích hợp. Đức Phật là vị Đại lương y, có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trị tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Chúng ta như những bệnh nhân, đã được chẩn đoán cho toa, phải uống thuốc đúng theo lời dặn trong toa mới mong khỏi bệnh phiền não.

Một chai trước chứa thuốc độc, nếu muốn sử dụng nó chứa mật ong, đầu tiên ta phải đổ hết thuốc độc ra, súc rửa nhiều lần cho thật sạch. Tâm trí ta cũng thế, ba độc tham sân si đã huân tập bao nhiêu đời kiếp. Nếu muốn chứa vị cam lồ giải thoát, trước hết phải tẩy sạch phiền não vô minh. Tịnh tu ba nghiệp, dần dần dừng nghiệp và sạch nghiệp. Không còn nghiệp tức động cơ sinh tử đã ngừng, vòng xích luân hồi bị chặt đứt.

Phương pháp tu hành theo Đạo Phật được phân chia thành Ngũ thừa, Tam thừaNhất thừa Phật giáo.

* Ngũ thừa Phật giáo

1. Nhân thừa: Người Phật tử quy y tam bảo, giữ gìn năm giới. Đời sau, người ấy trở lại thân người với mọi điều tốt đẹp.

2. Thiên thừa: Tu mười điều thiện, lánh xa mười nghiệp ác, thác sinh về cõi trời Dục giới.

3. Thinh văn thừa: Tu Tứ Diệu Đế, chứng quả vị Thinh văn (Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán)

4. Duyên giác thừa: Tu Thập nhị nhân duyên, quán lý Duyên sinh, giác ngộ bản chất duyên hợp của vũ trụ vạn hữu. Chứng quả vị Duyên giác.

5. Bồ tát thừa: Tu lục độ vạn hạnh. Hành giả thực hành tự độ độ tha, đạt đến cứu cánh Nhất thừa Phật đạo.

* Tam thừa Phật giáo

Chỉ kể Thinh văn, Duyên giácBồ tát thừa.

* Nhất thừa Phật giáo

Kinh Pháp Hoa có một ví dụ về “Hội tam quy nhất”, tức quy Tam thừa về Nhất thừa. Những người con mãi vui chơi trong nhà lửa, không biết từng giây phút bị lửa đe dọa tính mạng. Người cha muốn các con mau ra khỏi nhà lửa, nên lập bày phương tiện, hứa cho các con ba loại xe. Nếu ai ra khỏi nhà, sẽ được sử dụng các loại xe ấy, mặc tình rong chơi thỏa thích. Khi các con đã an toàn, người cha mới nói thật rằng, không có ba loại xe mà chỉ có duy nhấtxe trâu trắng. Ba loại xe ví như Tam thừa (Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát), xe trâu trắng là Phật thừa. Các quả vị của Tam thừa chỉ là Hóa thành, để chúng đệ tử có cơ sở tiến đạo và không cảm thấy ngao ngán vì đường tu xa xôi diệu vợi. Thật sự chỉ có quả vị duy nhấtPhật quả, là Bảo sở, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng là Niết bàn tự tâm ở ngay tại đây bây giờ!

IV. SỨ MỆNH TRUYỀN BÁ

Sau khi thành đạo dưới cội Tất-bát-la, Đức Bổn Sư định nhập Niết bàn, vì những gì Ngài thấy được chứng được đều khó tin khó hiểu; nếu người nghe sinh tâm nghi ngờ phỉ báng, sẽ vô tình tạo trọng tội. Nhưng do chư Thiên ba phen khẩn thiết thỉnh chuyển pháp luân, nên Đức Phật đành dùng phương tiện, tùy duyên giáo hóa. Sứ mệnh truyền bá của Đức Phật lúc còn tại thế được chia làm năm thời kỳ. Đưa dần trình độ của chư vị đệ tử từ thấp lên cao. Không kể 21 ngày đầu tiên thuyết kinh Hoa Nghiêm cho các hàng Bồ tát, 4 thời kỳ hoằng pháp của Đức Phật gồm có([i]):

1. Phật thuyết kinh A-Hàm: Trong 12 năm, chỉ dạy mọi phương tiên tự tu tự độ.

2. Kinh Phương Đẳng: Giai đoạn chuyển tiếp từ Tiểu thừa lên Đại thừa, vừa tự độ vừa độ tha. Phật thuyết trong 8 năm.

3. Kinh Bát-Nhã: Thời kỳ này dài nhất, 22 năm, Đức Phật dạy về Tánh Không của vũ trụ vạn loại, về Thật Tướng Vô Tướng của tất cả các pháp.

4. Kinh Pháp Hoa, Niết bàn: Trong 8 năm cuối đời, Đức Phật thấy căn cơ của chư đệ tử đã thuần thục, có thể đảm đương việc lớn là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” nên tỏ bày lý nghĩa rốt ráo, từ Tam thừa về Nhất thừa, từ Hóa thành đưa về Bảo sở. Để gieo niềm tin vững chắc cho hội chúng, Ngài đã thọ ký cho các đệ tử, không kể người trí hay ngu, nam hay nữ, hiền thiện hay xấu ác, thậm chí đến kẻ tạo tội ngũ nghịch như Đề-Bà-Đạt-Đa hoặc súc sinh nhỏ tuổi như Long nữ, cũng đều có khả năng thành Phật. Đúng như lời Bồ tát Thường Bất Khinh: “Tôi không dám khinh các người, vì các người đều sẽ thành Phật!”.

Chúng ta ngày nay, có nhân duyên lớn gặp được chánh pháp, học hiểu và tu hành có kết quả, nên tích cực truyền bá giáo lý của Đức Phật để người khác cũng được lợi lạc, để Phật pháp mãi mãi trường tồn. Tùy khả năng tu họchoàn cảnh mình đang sống, chúng ta có thể bằng khẩu giáo hay thân giáo góp phần làm tốt đời đẹp đạo. Tuy nhiên, việc truyền bá cần theo tinh thần khế lý khế cơ hay bất biến tùy duyên. Khế lý là phù hợp với chân lý bất biến của nhân sinh vũ trụ, khế cơphù hợp với căn cơthời đạitùy nghi sử dụng phương tiện, để ai cũng có thể thấm nhuần và tu tiến. Người truyền bá Phật pháp lúc nào cũng linh động nhưng không bao giờ nói sai chân lý. Nhưng ngược lại, nếu nói đúng với chân lý mà không thích hợp với thính chúng thì cũng khó thuyết phục, khó đưa chánh pháp thấm sâu vào lòng người, khó giúp đương sự tu hành có kết quả. Ví dụ, người Đông phương thường sống với nội tâm, nhịp sống chậm rãi nên thường ưa thích những pháp môn thâm sâu, có căn bản hoặc tuần tự từ thấp lên cao. Người Tây phương lại khác, quen với nhịp điệu hối hả, mong có kết quả nhanh chóng nên thích hợp với các phương pháp làm giảm căng thẳng thần kinh hoặc giúp an lạc ngay trong hiện đời. Những người sơ cơ chưa hiểu sâu giáo lý thường ưa nghe về tội phước, nhân quả, nghiệp báo… Người có trình độ nghiên cứu cao hơn lại rất tâm đắc về những đề tài Vô thường, Vô ngã, Duyên sinh… Đặc biệt, đối với những Phật tử vừa uyên thâm giáo lý vừa có công phu tu hành chuyên sâu, đây là mảnh đất tâm trù phú để gieo chủng tử vô lậu, là những người có thể gánh vác trọng trách tự lợi lợi tha, tự giác giác tha.

* *

*

Thuyền bè hay ngọn đuốc sáng là cứu tinh cho những người sắp chết đuối hoặc đang bị lạc vào rừng rậm thâm u. Nhưng nếu lên thuyền mà không chèo, có đuốc soi đường mà không đi, thì biết bao giờ thoát nạn? Giáo lý nhà Phật thậm thâm vi diệu, muôn kiếp khó tìm, chúng ta được nghe và hiểu đúng Phật pháp là điều hy hữu. Đã có duyên sâu dày, chúng ta càng nên nỗ lực tu hành, tùy duyên theo hoàn cảnh riêng. Bao nhiêu sóng gió trở ngại trong đời, ta kham nhẫn chịu đựng rồi yên ổn vượt qua, vì ta đã có hướng đi, có mục đích cao cảchuyển hóa bản thân, xây dựng gia đình hạnh phúc và góp sức cải thiện xã hội. Bằng những việc cụ thể làm lợi mình lợi người như thế, chung ta đã biết đền ơn chư Phật một cách thiết thực và đầy đủ ý nghĩa.



Ghi chú:

[i] Theo HT. Thích Thiện Hoa - Phật học phổ thông Khóa I


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28197)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6690)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8789)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15390)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8257)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8685)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16735)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26982)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15657)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22543)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19476)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18353)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16207)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12887)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37865)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10717)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10033)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10392)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11043)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15234)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10844)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19698)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11710)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10784)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11248)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10564)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10894)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11405)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11066)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17773)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15239)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15714)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11004)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12117)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11046)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21853)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9182)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10104)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant