Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô ngã

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8310)
Vô ngã

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Vô ngã

­

Có thể nói, Phật giáo là một tôn giáo độc nhất trong lịch sử nhân loại đã phủ nhận sự hiện hữu của một cái Ngã - linh hồn hay cái tôi - Phật thuyết minh vô ngã bằng thực chứng của chính Ngài. Kết quả đã đẩy lùi ý niệm sai lầm về Hữu ngã đang thống trị nơi các luồng tư tưởng, triết họctôn giáo đương thời.

Khi thuyết này vừa khởi xướng thì các nhà lãnh đạo tư tưởng có sự phản ứng mạnh, vì rằng đã làm chấn động và đi ngược lại với truyền thống cố hữu. Nhưng bất chấp mọi cản trở, ánh sáng của duyên sinh vô ngã đã từng bước đi vào lòng người vì tính trong sáng và như thực bản lai của nó. Nhìn chung, trong toàn bộ lời dạy của Đức Phật đối với hoàn cảnh lịch sử mà Ngài xuất hiện, quả thật Ngài là một nhà cách mạng văn hóa tư tưởng vĩ đại.

Rải rác đó đây trong các Kinh A-hàm cho biết, có tất cả 62 loại kiến chấp thịnh hànhquảng bá, làm cho người đương thời hoang mang không biết chỗ quy hướng. Trong 62 phân loại trên, tựu trung có hai loại kiến chấp cơ bản đó là Đoạn kiếnThường kiến. Đoạn kiến cho rằng chết là kết thúc và tiêu mất vào hư không, sau khi chếttuyệt diệt. Thường kiến thì cố tình xây dựng nên một cái Ngã (linh hồn), vĩnh viễn đời đời không có sự thay đổi, trước sau như một, thường tại bất biến. Với Thánh trí tự giác, Đức Phật bác bỏ hai luận điểm trên, và cho rằng đều rơi vào cực đoan thiên kiến. Chấp đoạn, chấp thường đều là biểu hiện của ngã tướng. Cái ý tưởng “tôi hiện hữu” là con đẻ của ngã tướng. Cái ý tưởng “tôi không hiện hữu” là con đẻ của ngã tướng, cho đến ý tưởng “tôi thành, tôi đạt, tôi đắc, tôi không còn, tôi tiêu mất...” cũng vẫn còn là hành vi của ngã tướng. Chấp ngã là nguồn cội của mọi khổ đau, khi nào ý thức chấp ngã còn hoạt động trong đời sống nội tâm, khi ấy sự khổ vẫn còn đeo đuổi chúng ta qua các kiếp sống.

Nếu thật là Ngã phải đủ ba yếu tố: chủ tể, bất biến và đồng nhất. Ai cũng muốn thân thể đừng bệnh hoạn, già nua và chết chóc, ước muốn ấy không thành tức là thân này không có chủ tể. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, nhưng trong tự thân cứ thay đổi biến hóa thường xuyên, thế là thân này không được bất biến. Thân này nhờ vay mượn các duyên giả hợp mà thành, thế là thân này không mang tính đồng nhất. Như vậy, thân này không có chủ tể, bất biến và đồng nhất nên không có Ngã, vì nhầm lẫn có một cái Ngã nên gọi là chúng sanh. Cái ảo tưởng về Ngã không còn thì gọi là Thánh, Bồ tát, Phật. Chính cái tư duy hữu ngã mà con người trở thành tạo vật khổ đau và đóng bít con đường đi đến Niết bàn.

Chính vô minhdục vọng xây dựng nên cái Ngã, và cũng do ý tưởng sai lầm này mà vô minhdục vọng phát sinh. Cho đến mọi tranh chấp giữa cá nhân và chiến tranh giữa các dân tộc cũng đều có gốc rễ từ ý tưởng sai lầm về Ngã. Cái ngã cá nhân, cái ngã gia đình, cái ngã xã hội thực ra cũng là một sai lầm. Phật nói vô ngã giúp chúng sanh thoát khổ, và vì vậy mà Ngài được tôn xưng là Đấng cứu khổ. Sự chấp ngã đi theo chúng sanh qua các kiếp sống như hình với bóng. Vì muốn chúng sanh hết khổ mà Phật quyền nói vô ngã, cũng vì thế Đạo Phật mang danh Ngài là Đạo vô ngã. Lý thuyết vô ngã là kết quả tất nhiên do khám phá Ngũ uẩn và Mười hai nhơn duyên.

Không có một sự vật nào hiện hữu mà không do duyên sinh, vì duyên sinh nên chỉ tìm thấy sự tương thuộc lẫn nhau, nương tựa nhau mà tồn tại. Tất cả pháp chỉthể hiện hữu trong tương đối, giới hạnphụ thuộc lẫn nhau. Muôn vật đủ duyên thì hiện, không đủ duyên thì ẩn tàng, trong đó không có sự mất hẳn (đoạn diệt), cũng không có yếu tố cố định (thường hằng). Duyên sinh vô ngã là nguyên lý bản chất của Đạo Phật, và cũng là nền tảng đạo đức cá nhânxã hội. Khi chưa quán thông vô ngã thì mọi việc làm cũng chỉ nhằm để củng cố cái tôi ích kỷ, cũng vì thế mà trở thành hời hợt và không một chút thâm tình nào thể hiện vào cuộc đời.

Duyên sinh là chỉ cho một hợp thể gồm nhiều yếu tố nương tựa nhau, quan hệ mật thiếtphụ thuộc lẫn nhautồn tại. Không có một sự vật nào hiện hữu một cách độc lập mà không liên hệ đến các sự vật khác, nên vốn “Không”, nhưng không có nghĩa là không ngoa, mà không có tánh đồng nhất, không có tánh cố định.

Trong Trung Luận thuộc phẩm Tứ Đế, Bồ tát Long Thọ nói:

“Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sanh

Thế nên tất cả pháp, thảy đều là không vậy”([i]).

Các pháp do duyên sanh nên vô tánh, vô tánhduyên sinh. Đứng về phương diện duyên sinh thì chỉ là hiện tượng hữu sinh hữu diệt và phụ thuộc tồn tại, nhưng nói về phương diện vô ngã thì chỉ cho kết quả do thắp sáng mọi hiện hữu đều là duyên sinh, có thể nói vô ngãbản thể của tất cả mọi hiện tượng (vật lý, sinh lýtâm lý).

Không thể có một bông hoa tồn tại mà không cần đến ánh sáng mặt trời, không khí, đất, nước, phân bón... vậy nên sự hiện hữu của bông hoa là sự hiện hữu của vũ trụ. Thân năm uẩn cấu thành một chúng sanh này, cho đến tất cả pháp cùng một quy luật. Tất cả pháp tuy có thiên hình vạn trạng nhưng đều nằm trong cái luật chung đó, và đó là nghĩa bình đẳng của tất cả pháp. Có pháp nào không là duyên sinh, mà đã là duyên sinh thì toàn thểvô ngã. Không thể xa rời các hiện tượng duyên sinh mà thấy được cái lý pháp thường hằng. Phật dạy:

“Ai thấy được duyên sinh là thấy được pháp.

Ai thấy được pháp là thấy được duyên sinh”.

Mãi cho đến thời hiện đại này, thuyết duyên sinh vô ngã vẫn không bị xem là lỗi thời; ngược lại, tính thuyết phục của nó đã cuốn hút và gây sức chú ý đối với các nhà vật lý học hiện đại một cách hấp dẫn. Về mặt khoa học, duyên sinh vô ngã soi sáng bản chất như thực của mọi hiện hữu.

“Chư pháp tùng duyên sinh, diệc tùng nhân duyên diệt” thực tại mang tính phổ biến, nó chi phối tất cả mọi hữu thể tồn tại. Nhờ chuyển động liên tụcgiả hợp mà các pháp hiện hữu. Các pháp không thể tồn tại một cách độc lập, mà tồn tại nhờ phụ thuộc lẫn nhau.

Cội gốc đau khổ không phải là năm uẩn, mà là “chấp thủ” vào năm uẩn, “khát ái” với năm uẩn, “vô minh” đối với năm uẩn. Hễ có chấp ngã là còn tạo nghiệp, còn tạo nghiệp là còn thọ khổ, cho nên gốc của khổ là nằm ở chỗ chấp ngã vậy. Đạo Phật được mệnh danh là Đạo phá chấp, là Đạo vô ngã cũng từ ý đó. Đây là lời dạy của bậc Đạo sư về đạo lý này:

“Sắc, này các Tỳ kheo, là vô ngã, quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại, vị đa văn Thánh đệ tử đối với sắc quá khứ không tiếc nuối, đối với sắc vị lai không hoan hỷ, đối với sắc hiện tại hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt”.

“Thọ là vô ngã... tưởng là vô ngã... hành là vô ngã... thức là vô ngã...”([ii])

Và đây là những lời dạy tiếp theo ý này:

“Sắc, này các Tỳ kheo, là vô ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên do sắc sanh khởi, cái ấy cũng vô ngã. Sắc đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi thì từ đâu là ngã được...”

“Thọ là vô ngã... tưởng là vô ngã... hành là vô ngã... thức là vô ngã...”([iii])

Cái bi kịch của kiếp người không do một định mệnh khắt khe nào, không do một Đấng sáng thế nào áp đặt mà chính do con người tự đày đọa mình trong vòng vô minh của ngã chấp. Và đây là minh chứng qua lời bậc Đạo sư dạy:

“Ví như, này các Tỳ kheo, có con chó bị dây thừng trói chặt vào một cây cột, hay cột trụ vững chắc, nó chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh cây cột, hay cây cột trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy các bậc Thánh... không thấy các bậc chân nhân... quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức như là tự ngã... nó chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì rằng nó chạy vòng theo, nên nó không giải thoát khỏi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không giải thoát khỏi sanh, già, sầu, bi, khổ, ưu não. Ta tuyên bố: Không giải thoát khổ đau”([iv])

Duyên sinh vô ngã thuộc yếu tố không gian, nói lên sự giả hợp của tất cả pháp. Ấy là cái thấy của Phật ở trong thiền định, chứ không phải cái biết thuộc tư duy hữu ngã của phàm phu, vốn đầy ắp ngã tính. Cái ánh giác phát sinh sau 49 ngày miệt mài thiền định nói lên hùng lực rất cần phải có trên con đường tầm cầu sự giải thoát tối thượng. Không thể đem kiến thức học hiểu hời hợt bằng lối tư duy phân biệt của trí năng mà có thể quán triệt được vô ngã. Trong Kinh A Hàm, Phật quở ngài A Nan, đủ chứng tỏ chỗ thậm thâm của đạo lý này:

“Này A Nan! Đừng nói thế, đừng nói thế! Giáo lý duyên khởi này là sâu xa và rất sâu xa. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này mà nhân loại trở nên như một cuộn chỉ rối rắm, như một ổ kén, rồi như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ sứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”.

chấp có một cái Ngã (linh hồn) đã ăn sâu vào tiềm thức, nên vào thời đại của Phật, những người nghe đến vô ngã liền đâm ra kinh hoàng khiếp sợ. Phật dạy:

“Hỡi các thầy Tỳ kheo, ý tưởng rằng: Ta có thể không còn tồn tại nữa (vô ngã), không còn gì nữa làm cho những người ngu lo sợ”.

Thế mới biết vào thời Phật, các luồng tư tưởng triết họctôn giáo đương thời xây dựng nên cái trục “Hữu ngã” đã ăn sâu vào lòng người biết đến ngần nào!

Thực tại là cái gì vừa biểu hiện vừa ẩn tàng. Biểu hiện đó là duyên sinh, ẩn tàng đó là vô ngã; biểu hiện đó là sự hữu, ẩn tàng đó là sự vô; biểu hiện đó là sự sống, ẩn tàng đó là sự chết. Nếu chỉ nhận một mặt này mà quên mất mặt kia của thực tại, đó là thiên kiến. Người dung thông thấy rằng hai mặt đều cùng một thể bình đẳng, bất khả phân ly (như sóng và nước).

Cái sai lầm căn bản của khoa học hiện đại là phân ranh thực tại thành những đối thể: Năng và sở, chủ và khách, trong và ngoài, người biết và đối tượng biết, người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Tách con người ra khỏi những hiện tượng thiên nhiên là một minh chứng. Vì thấy con người khác với thiên nhiên nên mới dùng khoa học chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên chiều theo tánh dục của con người để thỏa mãn lòng tham vọng vô bờ bến. Cái kết quả tất nhiên là thiên nhiên nổi loạn như đã chứng kiến trong những thập niên gần đây. Thực ra thân năm uẩn cũng là hiện tượng thiên nhiên như tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên khác. Con ngườithiên nhiên là một, là nhất thể bình đẳng. Hãy trân quý thiên nhiên như trân quý bản thân mình, đó là lời kêu gọi tha thiết của các nhà Đạo học Đông phương. Những lời Phật dạy mang tính tùy duyên nên chỉ là phương tiện nhất thời, vốn không có thật pháp có thể nương tựa. Tự tính vốn rỗng rang như hư không, vượt ngoài mọi đối đãi nhị biên, tùy duyênứng hiện.



[i] “Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh / Thị cố nhất thiết pháp, vô bất thị không dã”.

[ii] Tương Ưng 3 - Ba thời là Vô ngã - 24

[iii] Tương Ưng 3 - Ba thời là Vô ngã - 28

[iv] Tương Ưng 3 - Dây thừng - 178


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19824)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20895)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19231)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40497)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21231)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41017)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24072)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23021)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17799)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20696)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33585)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20951)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28860)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12674)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25237)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19110)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17499)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25736)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18978)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18948)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28978)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18882)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33274)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38348)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31196)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18196)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24471)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19431)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17874)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22981)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17995)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32131)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17355)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17410)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16053)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18552)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20751)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18041)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20072)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14849)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20873)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15051)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15744)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12928)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14480)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14890)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29345)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12744)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14498)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant