Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô ngã

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8328)
Vô ngã

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Vô ngã

­

Có thể nói, Phật giáo là một tôn giáo độc nhất trong lịch sử nhân loại đã phủ nhận sự hiện hữu của một cái Ngã - linh hồn hay cái tôi - Phật thuyết minh vô ngã bằng thực chứng của chính Ngài. Kết quả đã đẩy lùi ý niệm sai lầm về Hữu ngã đang thống trị nơi các luồng tư tưởng, triết họctôn giáo đương thời.

Khi thuyết này vừa khởi xướng thì các nhà lãnh đạo tư tưởng có sự phản ứng mạnh, vì rằng đã làm chấn động và đi ngược lại với truyền thống cố hữu. Nhưng bất chấp mọi cản trở, ánh sáng của duyên sinh vô ngã đã từng bước đi vào lòng người vì tính trong sáng và như thực bản lai của nó. Nhìn chung, trong toàn bộ lời dạy của Đức Phật đối với hoàn cảnh lịch sử mà Ngài xuất hiện, quả thật Ngài là một nhà cách mạng văn hóa tư tưởng vĩ đại.

Rải rác đó đây trong các Kinh A-hàm cho biết, có tất cả 62 loại kiến chấp thịnh hànhquảng bá, làm cho người đương thời hoang mang không biết chỗ quy hướng. Trong 62 phân loại trên, tựu trung có hai loại kiến chấp cơ bản đó là Đoạn kiếnThường kiến. Đoạn kiến cho rằng chết là kết thúc và tiêu mất vào hư không, sau khi chếttuyệt diệt. Thường kiến thì cố tình xây dựng nên một cái Ngã (linh hồn), vĩnh viễn đời đời không có sự thay đổi, trước sau như một, thường tại bất biến. Với Thánh trí tự giác, Đức Phật bác bỏ hai luận điểm trên, và cho rằng đều rơi vào cực đoan thiên kiến. Chấp đoạn, chấp thường đều là biểu hiện của ngã tướng. Cái ý tưởng “tôi hiện hữu” là con đẻ của ngã tướng. Cái ý tưởng “tôi không hiện hữu” là con đẻ của ngã tướng, cho đến ý tưởng “tôi thành, tôi đạt, tôi đắc, tôi không còn, tôi tiêu mất...” cũng vẫn còn là hành vi của ngã tướng. Chấp ngã là nguồn cội của mọi khổ đau, khi nào ý thức chấp ngã còn hoạt động trong đời sống nội tâm, khi ấy sự khổ vẫn còn đeo đuổi chúng ta qua các kiếp sống.

Nếu thật là Ngã phải đủ ba yếu tố: chủ tể, bất biến và đồng nhất. Ai cũng muốn thân thể đừng bệnh hoạn, già nua và chết chóc, ước muốn ấy không thành tức là thân này không có chủ tể. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, nhưng trong tự thân cứ thay đổi biến hóa thường xuyên, thế là thân này không được bất biến. Thân này nhờ vay mượn các duyên giả hợp mà thành, thế là thân này không mang tính đồng nhất. Như vậy, thân này không có chủ tể, bất biến và đồng nhất nên không có Ngã, vì nhầm lẫn có một cái Ngã nên gọi là chúng sanh. Cái ảo tưởng về Ngã không còn thì gọi là Thánh, Bồ tát, Phật. Chính cái tư duy hữu ngã mà con người trở thành tạo vật khổ đau và đóng bít con đường đi đến Niết bàn.

Chính vô minhdục vọng xây dựng nên cái Ngã, và cũng do ý tưởng sai lầm này mà vô minhdục vọng phát sinh. Cho đến mọi tranh chấp giữa cá nhân và chiến tranh giữa các dân tộc cũng đều có gốc rễ từ ý tưởng sai lầm về Ngã. Cái ngã cá nhân, cái ngã gia đình, cái ngã xã hội thực ra cũng là một sai lầm. Phật nói vô ngã giúp chúng sanh thoát khổ, và vì vậy mà Ngài được tôn xưng là Đấng cứu khổ. Sự chấp ngã đi theo chúng sanh qua các kiếp sống như hình với bóng. Vì muốn chúng sanh hết khổ mà Phật quyền nói vô ngã, cũng vì thế Đạo Phật mang danh Ngài là Đạo vô ngã. Lý thuyết vô ngã là kết quả tất nhiên do khám phá Ngũ uẩn và Mười hai nhơn duyên.

Không có một sự vật nào hiện hữu mà không do duyên sinh, vì duyên sinh nên chỉ tìm thấy sự tương thuộc lẫn nhau, nương tựa nhau mà tồn tại. Tất cả pháp chỉthể hiện hữu trong tương đối, giới hạnphụ thuộc lẫn nhau. Muôn vật đủ duyên thì hiện, không đủ duyên thì ẩn tàng, trong đó không có sự mất hẳn (đoạn diệt), cũng không có yếu tố cố định (thường hằng). Duyên sinh vô ngã là nguyên lý bản chất của Đạo Phật, và cũng là nền tảng đạo đức cá nhânxã hội. Khi chưa quán thông vô ngã thì mọi việc làm cũng chỉ nhằm để củng cố cái tôi ích kỷ, cũng vì thế mà trở thành hời hợt và không một chút thâm tình nào thể hiện vào cuộc đời.

Duyên sinh là chỉ cho một hợp thể gồm nhiều yếu tố nương tựa nhau, quan hệ mật thiếtphụ thuộc lẫn nhautồn tại. Không có một sự vật nào hiện hữu một cách độc lập mà không liên hệ đến các sự vật khác, nên vốn “Không”, nhưng không có nghĩa là không ngoa, mà không có tánh đồng nhất, không có tánh cố định.

Trong Trung Luận thuộc phẩm Tứ Đế, Bồ tát Long Thọ nói:

“Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sanh

Thế nên tất cả pháp, thảy đều là không vậy”([i]).

Các pháp do duyên sanh nên vô tánh, vô tánhduyên sinh. Đứng về phương diện duyên sinh thì chỉ là hiện tượng hữu sinh hữu diệt và phụ thuộc tồn tại, nhưng nói về phương diện vô ngã thì chỉ cho kết quả do thắp sáng mọi hiện hữu đều là duyên sinh, có thể nói vô ngãbản thể của tất cả mọi hiện tượng (vật lý, sinh lýtâm lý).

Không thể có một bông hoa tồn tại mà không cần đến ánh sáng mặt trời, không khí, đất, nước, phân bón... vậy nên sự hiện hữu của bông hoa là sự hiện hữu của vũ trụ. Thân năm uẩn cấu thành một chúng sanh này, cho đến tất cả pháp cùng một quy luật. Tất cả pháp tuy có thiên hình vạn trạng nhưng đều nằm trong cái luật chung đó, và đó là nghĩa bình đẳng của tất cả pháp. Có pháp nào không là duyên sinh, mà đã là duyên sinh thì toàn thểvô ngã. Không thể xa rời các hiện tượng duyên sinh mà thấy được cái lý pháp thường hằng. Phật dạy:

“Ai thấy được duyên sinh là thấy được pháp.

Ai thấy được pháp là thấy được duyên sinh”.

Mãi cho đến thời hiện đại này, thuyết duyên sinh vô ngã vẫn không bị xem là lỗi thời; ngược lại, tính thuyết phục của nó đã cuốn hút và gây sức chú ý đối với các nhà vật lý học hiện đại một cách hấp dẫn. Về mặt khoa học, duyên sinh vô ngã soi sáng bản chất như thực của mọi hiện hữu.

“Chư pháp tùng duyên sinh, diệc tùng nhân duyên diệt” thực tại mang tính phổ biến, nó chi phối tất cả mọi hữu thể tồn tại. Nhờ chuyển động liên tụcgiả hợp mà các pháp hiện hữu. Các pháp không thể tồn tại một cách độc lập, mà tồn tại nhờ phụ thuộc lẫn nhau.

Cội gốc đau khổ không phải là năm uẩn, mà là “chấp thủ” vào năm uẩn, “khát ái” với năm uẩn, “vô minh” đối với năm uẩn. Hễ có chấp ngã là còn tạo nghiệp, còn tạo nghiệp là còn thọ khổ, cho nên gốc của khổ là nằm ở chỗ chấp ngã vậy. Đạo Phật được mệnh danh là Đạo phá chấp, là Đạo vô ngã cũng từ ý đó. Đây là lời dạy của bậc Đạo sư về đạo lý này:

“Sắc, này các Tỳ kheo, là vô ngã, quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại, vị đa văn Thánh đệ tử đối với sắc quá khứ không tiếc nuối, đối với sắc vị lai không hoan hỷ, đối với sắc hiện tại hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt”.

“Thọ là vô ngã... tưởng là vô ngã... hành là vô ngã... thức là vô ngã...”([ii])

Và đây là những lời dạy tiếp theo ý này:

“Sắc, này các Tỳ kheo, là vô ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên do sắc sanh khởi, cái ấy cũng vô ngã. Sắc đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi thì từ đâu là ngã được...”

“Thọ là vô ngã... tưởng là vô ngã... hành là vô ngã... thức là vô ngã...”([iii])

Cái bi kịch của kiếp người không do một định mệnh khắt khe nào, không do một Đấng sáng thế nào áp đặt mà chính do con người tự đày đọa mình trong vòng vô minh của ngã chấp. Và đây là minh chứng qua lời bậc Đạo sư dạy:

“Ví như, này các Tỳ kheo, có con chó bị dây thừng trói chặt vào một cây cột, hay cột trụ vững chắc, nó chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh cây cột, hay cây cột trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy các bậc Thánh... không thấy các bậc chân nhân... quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức như là tự ngã... nó chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì rằng nó chạy vòng theo, nên nó không giải thoát khỏi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không giải thoát khỏi sanh, già, sầu, bi, khổ, ưu não. Ta tuyên bố: Không giải thoát khổ đau”([iv])

Duyên sinh vô ngã thuộc yếu tố không gian, nói lên sự giả hợp của tất cả pháp. Ấy là cái thấy của Phật ở trong thiền định, chứ không phải cái biết thuộc tư duy hữu ngã của phàm phu, vốn đầy ắp ngã tính. Cái ánh giác phát sinh sau 49 ngày miệt mài thiền định nói lên hùng lực rất cần phải có trên con đường tầm cầu sự giải thoát tối thượng. Không thể đem kiến thức học hiểu hời hợt bằng lối tư duy phân biệt của trí năng mà có thể quán triệt được vô ngã. Trong Kinh A Hàm, Phật quở ngài A Nan, đủ chứng tỏ chỗ thậm thâm của đạo lý này:

“Này A Nan! Đừng nói thế, đừng nói thế! Giáo lý duyên khởi này là sâu xa và rất sâu xa. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này mà nhân loại trở nên như một cuộn chỉ rối rắm, như một ổ kén, rồi như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ sứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”.

chấp có một cái Ngã (linh hồn) đã ăn sâu vào tiềm thức, nên vào thời đại của Phật, những người nghe đến vô ngã liền đâm ra kinh hoàng khiếp sợ. Phật dạy:

“Hỡi các thầy Tỳ kheo, ý tưởng rằng: Ta có thể không còn tồn tại nữa (vô ngã), không còn gì nữa làm cho những người ngu lo sợ”.

Thế mới biết vào thời Phật, các luồng tư tưởng triết họctôn giáo đương thời xây dựng nên cái trục “Hữu ngã” đã ăn sâu vào lòng người biết đến ngần nào!

Thực tại là cái gì vừa biểu hiện vừa ẩn tàng. Biểu hiện đó là duyên sinh, ẩn tàng đó là vô ngã; biểu hiện đó là sự hữu, ẩn tàng đó là sự vô; biểu hiện đó là sự sống, ẩn tàng đó là sự chết. Nếu chỉ nhận một mặt này mà quên mất mặt kia của thực tại, đó là thiên kiến. Người dung thông thấy rằng hai mặt đều cùng một thể bình đẳng, bất khả phân ly (như sóng và nước).

Cái sai lầm căn bản của khoa học hiện đại là phân ranh thực tại thành những đối thể: Năng và sở, chủ và khách, trong và ngoài, người biết và đối tượng biết, người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Tách con người ra khỏi những hiện tượng thiên nhiên là một minh chứng. Vì thấy con người khác với thiên nhiên nên mới dùng khoa học chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên chiều theo tánh dục của con người để thỏa mãn lòng tham vọng vô bờ bến. Cái kết quả tất nhiên là thiên nhiên nổi loạn như đã chứng kiến trong những thập niên gần đây. Thực ra thân năm uẩn cũng là hiện tượng thiên nhiên như tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên khác. Con ngườithiên nhiên là một, là nhất thể bình đẳng. Hãy trân quý thiên nhiên như trân quý bản thân mình, đó là lời kêu gọi tha thiết của các nhà Đạo học Đông phương. Những lời Phật dạy mang tính tùy duyên nên chỉ là phương tiện nhất thời, vốn không có thật pháp có thể nương tựa. Tự tính vốn rỗng rang như hư không, vượt ngoài mọi đối đãi nhị biên, tùy duyênứng hiện.



[i] “Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh / Thị cố nhất thiết pháp, vô bất thị không dã”.

[ii] Tương Ưng 3 - Ba thời là Vô ngã - 24

[iii] Tương Ưng 3 - Ba thời là Vô ngã - 28

[iv] Tương Ưng 3 - Dây thừng - 178


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34362)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16873)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22972)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13054)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21968)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22189)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23585)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24121)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17146)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19363)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27073)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14425)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13846)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12681)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13871)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10411)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14708)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17201)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12712)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10374)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10712)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16882)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15782)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13343)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12559)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11369)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13031)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19315)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28614)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10054)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21528)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12796)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17826)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26239)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11708)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10854)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22760)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12047)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10608)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11414)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11530)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant