Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục độ Ba-la-mật

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6457)
Lục độ Ba-la-mật

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Lục độ Ba-la-mật

Lục độ Ba-la-mật là pháp tu của hàng Bồ tát, được hiểu một cách khái quát là sáu phương tiện đưa người qua bờ bên kia, tức từ bờ mê qua bờ giác. Tuy nhiên, ý nghĩa “qua bờ kia” chưa diễn đạt hết tinh tuý của từ Ba-la-mật, vì Bồ tát không chỉ an vị tại bờ giác, mà mục đích tu hành của Bồ tát là một mặt tự hoàn thiện mình, một mặt cứu độ chúng sanh. Các Ngài làm tất cả các Phật sự nhưng không có tâm mong cầu kết quả, không chấp trước vào người làm, vào phương tiện làm và vào chúng sinh là đối tượng của việc làm. Đây là đạo đức vô hành, là tam luân không tịch, là vô sở cầu vô sở đắc.

Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực. Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Có từ bi, các Ngài có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí.

Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện mục... Nhận ra bản tâm là chánh nhân thành Phật, hằng sống trọn vẹn với bản tâmviên mãn Phật quả.

Lục độ Ba-la-mật gồm sáu phương tiện:

- Bố thí Ba-la-mật

- Trì giới Ba-la-mật

- Nhẫn nhục Ba-la-mật

- Tinh tấn Ba-la-mật

- Thiền định Ba-la-mật

- Trí huệ Ba-la-mật

1. Bố thí Ba-la-mật

Hiểu theo sự, bố thí là chia sẻ, ban cho, cung cấp; gồm 3 loại: tài thí, pháp thívô úy thí. Tài thíbố thí tài sản vật chất (ngoại tài) hoặc công lao, thân mạng của chính mình (nội tài). Pháp thí là dùng lời khuyên răn về đạo đức làm người, khiến ngưới bỏ ác hướng thiện, hoặc dùng chánh pháp hướng dẫn người tu hành để được giác ngộ giải thoát. Tài thí giúp người đỡ phần khốn khó về thân trong một thời gian nhất định; trong khi tóm lược một pháp yếu, con người có thể áp dụng suốt đời tu, nên pháp thí có thể mang đến sự bình ổn nội tâm trong thời gian lâu dài. Người bố thí tài chỉ có một khả năng nào đó để đáp ứng một phần nhu cầu của người nhận; còn người giảng được một đoạn kinh hay, thì dù số người nghe đông bao nhiêu cũng đều có phần lợi lạc. Lại nữa, tài thí chỉ có giá trị nhất thời, trong lúc pháp thí giúp vĩnh thoát sinh tử nên giá trị vô hạn. Như vậy, so với tài thí thì pháp thí thù thắng hơn rất nhiều, nhưng người bố thí phải có trình độ về đạo học và biết cách thu phục nhân tâm.

Vô úy thí là giúp người bớt sợ hãi bằng lời nói hay việc làm. Từ những điều sợ hãi nhỏ nhặt như sợ côn trùng, sợ bóng đen... Đến những nỗi khiếp đảm đối với thiên tai, chiến tranh, bịnh tật, chết chóc... những lời an ủi động viên hoặc hành động bảo bọc vỗ về sẽ làm con người cảm thấy bình an hơn. Thậm chí lúc sắp lâm chung, nếu được nghe kinh kệ, nghe niệm hồng danh chư Phật hoặc được hướng dẫn về những điều cần làm khi bước qua bên kia cửa tử, người sắp mất có thể yên tâm ra đi với một cận tử nghiệp thiện lành.

Hiểu theo lý, bố thí nghĩa là buông xả. Kinh Kim-Cang, Đức Phật dạy: “Bồ tát đối với pháp không nên có chỗ trụ mà làm việc bố thí... Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ bàn”. Khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi duyên mà tâm không dính mắc, không khởi niệm phân biệt phê phán, làm tất cả việc vì người khác mà không trụ tướng, đó là hoàn toàn buông xả phù hợp với ý nghĩa sâu xa của bố thí Ba-la-mật.

Như thế, bố thí Ba-la-mật vừa làm lợi cho mình vừa có ích cho người. Đối với người, đây là một nghệ thuật sống, giúp người bớt khốn khổ, bớt sợ hãi lo âu, đem đến niềm an ủi, sự ấm áp của tình người. Không chỉ có tài sản mới bố thí được, mà một lời nói hay, một việc làm nhỏ, một nụ cười vui… phát xuất từ tâm chân thành thiết tha đều mang nhiều lợi lạc. Mọi công đức đều xuất phát từ tâm ý, tâm càng thanh tịnh, càng bớt ngã chấp thì kết quả của việc làm càng lớn lao. Đối với mình, càng bố thí ta càng giảm được lòng tham, càng có niềm vui khi việc làm có ích cho cộng đồng. Tiến thêm một bước, thực hiện hạnh buông xả, ta có thể tự tại an nhiên trước mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Hình ảnh các thiền sư “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò” và khi hết duyên, ngồi kiết già thị tịch trước các môn đệ, là những hình ảnh sáng ngời của sự tự tại đối với sinh và tử.

2. Trì giới Ba-la-mật

Theo tinh thần Bồ tát Đại thừa, trì giới có ba trình độ: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giớiNhiêu ích hữu tình giới.

Nhiếp luật nghi giới là nghiêm trì giới luật, gìn giữ oai nghi, thu nhiếp thân tâm thì người khác dễ sinh lòng quí kính, từ đó dễ cảm hoá thu phục họ. Đây là các Bồ tát thuận hạnh, dùng thân giáo làm lợi ích cho người; nhưng nhờ giữ oai nghi tịnh hạnh mà chính mình cũng dễ thăng tiến trên đường tu.

Nhiếp thiện pháp giới là vận dụng nhiều phương tiện giúp đỡ người khốn khó nhằm chinh phục tâm lý người, sau đó giáo hoá người biết hướng tu hành.Việc làm này chủ yếu là lợi tha, đòi hỏi Bồ tát phải có nhiều khả năng và kiến thức trên nhiều phương diện. Ngũ minh là một đòi hỏi đúng đắn để Bồ tát có nhiều cơ hội giúp đời giúp người, nhất là trong thời đại khoa học công nghệ ngày nay: Nội minhgiáo điển nhà Phật; Ngoại minh là kiến thức thế gian; Y Phương minhhiểu biết về y khoa để bảo vệ sức khoẻ cho người; Công xảo minhhiểu biết về các nghề nghiệp từ thủ công đến khoa hoc kỹ thuật; và Thanh minh là ngoại ngữ để dễ giao tiếp với người nước ngoài.

Đỉnh cao của hạnh Trì giớiNhiêu ích hữu tình giới, Bồ tát nguyện dùng chánh pháp hoá độ tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới. Bằng trí tuệ, Bồ tát biết rõ mọi hàm linh đều có chủng tử giác ngộ. Đây là hạt giống có sẵn; nếu gặp điều kiện thuận lợi, hạt giống sẽ nảy mầm thành cây, đơm hoa kết quả. Nếu chưa đủ điều kiện, hạt giống ở dạng tiềm ẩn, nhưng chưa bao giờ mất. Đại nguyện của Bồ tát là khơi dậy những hạt giống đang ngủ ngầm và tạo điều kiện để chúng đâm chồi nảy lộc. Kinh thường diễn tả cảnh các vị Bồ tát đến nơi pháp hội của Đức Phật, vị nào cũng có quyến thuộc đi theo. Quyến thuộc ấy là những chúng sinh hữu duyên được Bồ tát giáo hoá từ nhiều kiếp. Bồ tát hành hạnh nhiêu ích càng nhiều, quyến thuộc của Ngài càng đông đảo.

Để mang đầy đủ ý nghĩa Ba-la-mật, ba hình thức trì giới nói trên phải phù hợp tinh thần tam luân không tịch; Bồ tát làm lợi ích cho người nhưng không chấp ngã và chấp các pháp là thật có, nên không thấy thật có mình là người làm, thật có việc đang làm và thật có chúng sinh là đối tượng của việc làm ấy.

3. Nhẫn nhục Ba-la-mật

Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trở sự tiến tuma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra) và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình).

Theo nghĩa rộng, nhẫn nhục là không sanh tâm khởi niệm khi tiếp duyên xúc cảnh, mà đỉnh cao là Vô sanh nhẫn hay Vô sanh pháp nhẫn. Trước tất cả pháp, dù thấy nghe hiểu biết mọi sự nhưng tâm Bồ tát không xao động, không chấp trước. Do tâm không, nên các pháp đều không, dù là pháp thế gian hay pháp xuất thế. Đây là ý nghĩa của Vô tâm trong nhà Thiền, nhẫn nhục xứng theo tự tánh nên phù hợp với Ba-la-mật.

Ngày xưa, các vị Tổ Sư thường tạo những nghịch duyên để thử thách một số môn đệ có khả năng đảm đương việc lớn. Ngài Linh Hựu lúc được thầy giao trọng trách về núi Qui để phát huy tông phong, không được Thầy cho một thứ tài sản vật chất gì, chỉ một thân một mình trên núi hoang đầy thú dữ. Hàng ngày Ngài chỉ uống nước suối ăn quả rừng, ròng rã suốt bảy năm, khi cơ duyên đến mới hoằng truyền chánh pháp, để sau này dưới pháp hội của ngài là cả ngàn môn đệ. Đây là ý nghĩa thâm trầm cùa sự tu hành không ngại khó khổ, nhẫn nhục trước mọi sóng gió gian lao. Cho nên, trong nhà Thiền thường có chủ trương hơi kỳ lạ: không sợ thất bại mà lại sợ thành công. Cây mọc nơi đất khô cằn, nếu lớn lên được thì có lõi rất cứng chắc. Cây mọc nơi đất đai phì nhiêu được vun bón tưới tẩm thường xuyên lại dễ ngã khi có giông bão. Cũng vậy, một người trải qua nhiều gian khổ thử thách mà vươn lên là người đáng tin cậy, có thể giao trọng trách; còn người nào muốn nương nhờ thầy thường ỷ lại, đến khi gặp một trở ngại nhỏ cũng có thể thối tâm bồ đề. Vả lại, khi có nhiều thuận duyên, người tu dễ có ảo tưởng là đường tu rất suông sẻ, tu là để thụ hưởng, cuộc đời tu luôn luôn an vui đầy đủ, điều này có hại hơn có lợi cho công phu hành trì.

4. Tinh tấn Ba la mật

Tinh là chuyên ròng, không xen tạp; tấn là siêng năng tiến tới. Việc học và hành đạo của Bồ tát phải tinh chuyêncần mẫn, đó là tinh tấn. Nhưng tinh tấn thế nào mới đúng với tinh thần Ba-la-mật?

Thiền sư Huyền Giác trong Chứnng Đạo Ca có câu: “Sá gì tinh tấn hướng ngoài khoe” như là lời nhắc nhở. Chúng ta tu trước tiên là cho bản thân, nhưng có tính cách âm thầm chứ không phải khoe khoang cho người khác thấy. Nếu nơi chỗ đông đảo ta làm vẻ tinh tấn tu hành, oai nghi phép tắc; khi không có ai lại chểnh mảng trong công phu, đó là chấp tướng, giả trang và đầy bản ngã, như thế chưa phải thật sự là tinh tấn.

Các bậc Thanh Văn, Duyên Giác cũng tinh tấn công phu, nhưng đến quả vị ấy là xem như đạt mục đích. Thật sự, các vị chỉ mới ở Hóa thành chứ chưa phải là Bảo sở. Có thể nói, tinh tấn Ba-la-mật là ý nghĩa tu hành của một Bồ tát đang đi trên đường thành tựu Chánh đẳng Chánh giác.

Tinh tấn được ví như nhiên liệu của xe. Thân năm uẩn là chiếc xe, người tu dùng nó để đi đến đích. Nếu xe tốt, người lái giỏi mà không có nhiên liệu thì xe cũng không chạy được. Tinh tấnđiều kiện cần thiết hỗ trợ cho việc tu hành. Trong suốt cuộc đời, chúng ta gặp biết bao nhiêu lần thất bại cũng như biết mấy lúc thành công? Nhưng nếu thành công ta không sanh tâm kiêu mạn, lúc thất bại ta không thối chí ngã lòng, thì dù nhanh hay chậm, ta đã có tiến bộ. Đọc lịch sử Đức Phật Thích Ca, chúng ta thấy rõ rằng, nhờ tinh tấn tu hành mà Ngài thành Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm măm; trong khi Đức Di Lặc tu đồng thời với Ngài, không tinh cần bằng Ngài nên bây giờ vẫn là Bồ tátcung trời Đâu Suất.

Mặt khác, tinh tấn phải thường xuyên. Nước mềm đá cứng, nhưng nước chảy thường xuyên sẽ làm đá mòn; giọt nước tinh tấn thường xuyên nhỏ trên tảng đá vô minh sẽ soi thủng được đá. Muốn có lửa phải cọ sát hai khúc cây liên tục, cây nóng dần mới phát tia lửa. Một Thiền sưbài kệ:

Trong cây vốn có lửa

Tia lửa lại sáng lòa

Nếu bảo cây không lửa

Cọ sát sao lại ra?

Trong chúng ta vốn có lửa trí tuệ, phải tinh tấn cọ sát liên tục, lửa trí tuệ ấy mới phát sinh. Nếu có lúc quá ư siêng năng, nhưng có khi lại bê trễ, thì sự tu hành khó đạt kết quả mong muốn. Chúng ta không cần phảihình thức sinh hoạtđặc biệt hoặc tỏ vẻ khác đời, chỉ cần sống và tu một cách bình thường, không biếng nhác lười mỏi trong công phu, đều đặn ngày này qua ngày khác, như thế là hợp lẽ đạo.

Tinh tấn còn có nghĩa là năng lực của nội tâm và dùng năng lực ấy để phục vụ cho người khác. Thế nào là năng lực của nội tâm? - Khác với người thế gian cần cù làm ăn học hành nhưng có xu hướng theo ngoại dục và chú trọng đến nhu cầu vật chất; người tu, một mặt phải giữ gìn sức khỏe thể chất, nhưng quan trọng hơn là phải giữ sức khoẻ tinh thần, nghĩa là làm sao để tâm không bị quay cuồng theo ngũ dục, ngày càng có sự an lạctăng trưởng trí tuệ. Được như thế, người tu mới có thể giúp đỡ mọi người một cách tích cực và có hiệu quả. Ý nghĩa của việc tu hành Bồ tát đạo là vừa làm lợi ích cho người, đồng thời cũng được lợi ích cho mình. Giữa Bồ tátchúng sanh có sự liên hệ chặt chẽ và hai chiều: Nhờ Bồ tátchúng sanh bớt khổ, biết đường hướng tu hành; nhờ chúng sanhBồ tát tự hoàn thiện mình khi làm việc phụng sựgiáo hóa.

Tinh tấn thường xuyên liên tục cần có sự hỗ trợ của ý chínghị lực mạnh mẽ. Trên đường tu, không phải lúc nào mọi người cũng cư xử tốt đẹp, mọi việc cũng êm xuôi như ý. “Phật cao một thước, ma cao một trượng”. Khi mới sơ phát tâm, nội lực còn kém thì ít bị ma chướng. Chúng ta tu càng tiến thì ngũ dục lục trần càng công phá mãnh liệt, nghịch duyên càng kéo đến liên miên. Nếu khôngý chí kim cươngnghị lực vững mạnh, người tu khó có thể vượt qua những chướng ngại trùng điệp ấy. Đối với Bồ tát, chướng duyên là thắng duyên, vì chúng củng cố và phát triển nghị lực, hùng lực cho các Ngài, giúp các Ngài tiến nhanh hơn trên đường đạo. Đề-Bà-Đạt-Đa được Đức Phật gọi là Thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài, cũng chính vì lý do này.

5. Thiền định Ba-la-mật

Trong 49 ngày đêm ngồi dưới cội cây Tất-bát-la bên dòng sông Ni-liên-thuyền, Đức Phật nhờ thiền định mà dứt sạch mối manh sinh tử, chứng quả Vô thượng Bồ Đề. Những vị đệ tử của Ngài cũng nhờ thiền định thành A-la-hán, không còn luân hồi trong ba cõi. Bồ tát thệ nguyện vĩnh kiếp ở trong trần lao giáo hóa chúng sanh, cũng phải nhờ thiền định để không bị nhiễm nhơ trần tục. Điều này cho thấy, thiền địnhcốt lõi, là sức sống của Đạo Phật, là căn bản của công phu hành trì trong mọi tông phái.

Nội dung của thiền định là sự bình ổn nội tâm, không quay cuồng theo trần cảnh. Lục Tổ Huệ Năng trong kinh Pháp Bảo Đàn định nghĩa về thiền định như sau: “Ngoại ly tướng tức thiền, nội bất loạn tức định”. Thiền là bên ngoài không dính mắc vào các pháp, định là nội tâm không còn vọng tưởng lăng xăng. Thiền định không chỉ ở trong tư thế ngồi, mà ở bất cứ mọi nơi mọi lúc, nên là một thực tại bất ly thế gian. Trong thời đại văn minh khoa học mà tiện nghi vật chất được xem như nhu cầu thiết yếu, cuộc sống hối hả tranh đua làm con người ngày càng bị căng thẳng thần kinh, càng mất đi sự bình an cần thiết cho sức khỏe tinh thần. Bệnh tật của tinh thần kéo theo bệnh tật về thể chất, và thiền định chính là phương thuốc hữu hiệu có thể điều trị những bệnh về thân và tâm ấy.

Thiền định giữ tâm người tu bình thản an nhiên trước phong ba bão táp của cuộc đời. Đặc biệt đối với bát phong([i]) được xem như là thước đo định lực của người tu, nếu có thể bất động như gió thổi qua màn lưới thì mới là người đạt đạo. Cũng nhờ thiền địnhBồ tát hững hờ với mọi cám dỗ lạc thú thế gian, nên làm tất cả phật sự mà không vướng vào danh lợi tài sắc. Từ đó, Bồ tát hít thở được không khí tự do đích thực phát xuất từ tâm thanh tịnh của chính mình.

Tiến thêm một bước, thiền địnhphương tiện cho trí tuệ vô thượng phát sinh. Có những lúc toạ thiền, tâm hoàn toàn rỗng rang vắng lặng, người tu nhận ra từ trong cõi miền sâu xa của tâm thức, có một năng lực vận hành. Đây là cái BIẾT một cách trực tiếp và thấu thể về tất cả các pháp, biết không qua ý thức phân biệt nhị nguyên, khởi nguồn của TRÍ VÔ SƯ, đỉnh cao của cuộc đời tu hành. Tất cả giáo pháp của Đức Phật đều lưu xuất từ trí tuệ này, nên khi Bồ tát có một trình độ tâm linh khả dĩ, thì sự giáo hóa của các Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho quần sanh. Nhưng thiền định như thế nào mới khế hợp với tinh thần Ba-la-mật?

Thiền định Ba-la-mậtBồ tát không chấp vào cảnh giới chứng ngộ. Nhà Thiền có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma” để nhắc nhở người tu không được chấp trước, trú trước và nhiễm trước vào những cảnh giới sở chứng, vì đó chỉ là do tâm biến hiện. Bồ tát luôn học và tu theo tinh thần vô sở cầu vô sở đắc, nên không có niệm ưa thích niết bàn hay chán ghét địa ngục, nhờ vậy mới hoàn thành hạnh nguyện độ sanh.

6. Trí huệ Ba-la-mật

Đạo Phật là đạo giác ngộ, Đức Phật là bậc giác ngộ vô thượng, nên tất cả những người con Phật đều xem giác ngộsự nghiệp chung thân. Dù đang công phu theo pháp môn nào, người tu cũng đặt trí tuệ lên hàng đầu. Bồ tát tu theo Lục độ thì chi phần thứ sáu tức Trí huệ Ba-la-mật cũng là chỗ y cứ của năm chi phần trên.

Trí huệ Ba-la-mật, còn gọi là Bát nhã Ba-la-mật, là trí huệ của một bậc Bồ tát đã quán triệt chân tướng của vạn pháp. Nhờ trí huệ cứu cánh cùng tột này, Bồ tát thiết lập nhiều phương tiện, tuỳ căn cơ trình độsở thích của chúng sanh để giáo hóa họ một cách hiệu quả.

Có ba cấp độ Bát nhã:

1. Văn tự Bát nhã: Đây là giai đoạn đầu dành cho người sơ cơ, nhưng rất cần thiết và được xem là bước căn bản. Chúng ta học trên kinh sách, hiểu lời Phật dạy, sau đó suy gẫmđối chiếu từ bản thân ta đến các pháp bên ngoài. Trí huệ phát sinh từ đọc và nghe giảng (văn huệ) sau đó phân tích suy luận để hiểu thấu vấn đề (tư huệ) là vốn liếng đầu tiên của một Bồ tát trên bước đường hoằng hóa lợi sanh sau này. Do vậy, trong Tứ hoằng thệ nguyện có câu “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” ý nghĩa thu gom kiến thức, để tự hoàn thiện mình và để tự có khả năng giúp đỡ giáo dục cho người.

2. Quán chiếu Bát nhã: Bồ tát Quán Tự Tại khi hành sâu Bát nhã Ba-la-mật, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ nạn. Chúng ta tu theo Ngài, gia công quán chiếu để thấy rõ thân tâm này do các duyên hợp lại. Đủ duyên thì thành, hết duyên lại trả về không, nên nó không có thực thể. Như vậy, tự tánh của thân tâm ta là không, nhờ duyên hợp nên tạm có. Thân ta như vậy, thân người khác cũng như vậy; cho đến tất cả cáp pháp thế gianxuất thế, tự tánh đều là KHÔNG. Vào giai đoạn này, vẫn còn phân biệt tâm năng quán và cảnh sở quán, nên chưa phải là rốt ráo.

3. Thực tướng Bát nhã: Bồ tát quán triệt tự tánh Không của tất cả pháp không phải bằng ý thức tư duy suy luận, mà do trí huệ bát nhã thấu rõ đương thể tức không. Ở đây không còn phân biệt Ta-Người năng sở, mà cả hai đều hòa nhập, viên dung trong trạng thái nhất như. Bồ tát thâm nhập chân lý tuyệt đối, không phải ở một thế giới nào đó xa xôi, ở một thời khắc nào đó của tương lai không với tới, mà ngay thế giới trần tục. Ngay mảnh đất thực tại nhận chân được thực tướng của vũ trụ vạn pháp. Đây chính là trí huệ Ba-la-mật.

Kinh Pháp Hoabài kệ:

Chư Pháp tùng bổn lai

Thường tự tịch diệt tướng

Phật tử hành đạo

Lai thế đắc tác Phật.([ii])

Bằng trí huệ thực chứng Pháp thân, Bồ tát thấy rõ tất cả các pháp xưa nay, tướng của chúng thường tự vắng lặng. Tướng ở đây là thực tướng vô tướng, vì khi tiếp duyên xúc cảnh, Bồ tát không khởi niệm phân biệt chia chẻ, chủ thể và đối tượng nhận thức không hai. Mọi cảnh vẫn sống động vẫn lưu chuyển, nhưng tâm hoàn toàn thanh tịnh nên tất cả pháp đều là Phật pháp. Bằng trí giác, Bồ tát nhận ra thực tại nhiệm mầu nghìn đời cũng chỉ trong một sát na, tại đây và bây giờ. Lìa sóng không thể có nước, lìa bỏ trần tục không thể thấy được niết bàn. Tư tưởng vút cao của Bồ tát Đại thừatinh thần bất nhị, đem đến sinh khí cho cuộc đời, vì Bồ tát không hề xa lánh cõi trần để tìm cầu giải thoát. Bồ tát nguyện vĩnh kiếp hòa quang đồng trần để tự thanh lọc mình và để cứu độ chúng sanh. Vẫn biết có lúc Bồ tát phải ở yên một nơi vắng vẻ, nhưng đó là thời gian củng cố và phát triển đạo lực, trang bị những khả năng cần thiết cho công việc giáo hóa sau này. Khi đã đủ nhân duyên, Bồ tát vận dụng trí huệ Ba-la-mật làm mọi Phật sự, trí huệ Ba-la-mật soi rọi bản thân để hoàn thành sự nghiệp tự lợi- lợi tha, cuối cùng viên mãn Phật quả.

* *

*

Lục độ Ba-la-mật vừa là pháp tu, vừa làm nên tinh thể của một vị Bồ tát. Trên đường tu Bồ tát hạnh-hành Bồ tát đạo, vị ấy phải có đủ đại trí, đại từ, đại bi, đại nguyện: Trên cầu Phật đạo, đạt giác ngộ tối thượng; dưới hóa độ tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nhờ trì giới, tinh tấn thiền định, phát khởi trí huệ, thấu triệt bình đẳng tánh nơi muôn sự muôn vật, thấy mình và mọi loài chúng sanh không hai không khác. Bằng trí huệ, Bồ tát có khả năng xuất chúng về mọi phương diện, đồng thời phát khởi lòng từ bi, do vậy có thể nhẫn nhục để hành hạnh bố thí. Do làm tất cả hạnh nguyện với tinh thần Ba-la-mật, nên viên dung giữa mình và người, không có tâm mong cầu sở hữu. Vì nhân vô vi nên đạt quả cứu cánh, phương pháp tu của các Ngài vừa làm lợi ích cho mình, vừa giúp được cho người một cách trọn vẹn. Kính ngưỡng nhân cách vĩ đại của Bồ tát, chúng ta cũng nguyện noi gương các Ngài, vượt qua mọi khó khăn gian khổ để tiếp bước trên con đường Đức Phật đã đi và đã đến đích.



[i] Tám tình huống thường xảy ra trong cuộc sống, ví như tám ngọn gió: lợi (thu được tài sản), suy (hao tài tốn của), hủy (bị phỉ báng), dự (được vinh dự), xưng (được khen tặng), (bị chê bai), khổlạc (khổ và vui)

[ii] Tạm dịch: “Các Pháp xưa đến nay / Tướng thường tự vắng lặng / Phật tử hành đạo rồi / Đời sau được làm Phật.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19758)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20848)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19153)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40360)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21165)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40951)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24014)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22970)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17755)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26793)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20629)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33501)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28718)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12633)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25080)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17408)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25580)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18914)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18896)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28877)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18150)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24393)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19387)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17818)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22872)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17957)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31987)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17299)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17331)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16007)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20697)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17942)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20023)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14773)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20801)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15689)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12868)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14441)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29246)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12693)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14435)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant