Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Con Người Bất Tử

18 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 4492)
05. Con Người Bất Tử

HÉ MỞ CỬA GIẢI THOÁT 
Thiền Sư Thích Thanh Từ

V 

CON NGƯỜI BẤT TỬ 

 

Thế theo lời yêu cầu của vị Đại diện Tăng Ni hôm nay, tôi nói với quý vị về “Con người bất tử” trong đây tôi chia làm ba phần: Con người bất tử, ngay con người sanh tửcon người bất tử, nhập con người bất tử, ba phần nầy thật là hệ trọng, phần một phần hai tôi giải quyết được, phần ba tôi chỉ dẫn Kinh làm chứng, vì việc này tôi chưa làm xong.

Con người bất tử.

Thế nào là con người bất tử? Ở đây tôi nói con người bất tử, chính trong Kinh nói là pháp thân, là Như Lai, là Chơn Tâm, là Niết bàn... chính đó là cái bất tử sẵn có nơi chúng ta. Nhập được cái đó gọi là Như Lai, là Phật vv... Đây tôi nói danh từ, nhận ra con người bất tử là gì? Quý vị thường tụng Kinh Pháp Hoa, nhớ phẩm mười sáu Như Lai Thọ Lượng, tức là tuổi thọ của Đức Phật trong kinh Phật kể tuổi thọ là bao nhiêu. Ai có thể tính được? Phật nói tổng quát thế nầy, giả sử có người đem thế giới tam thiên đại thiên nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi làm mực, người ấy dùng thần thông đi qua cả trăm ngàn thế giới mói chấm một hạt bụi xuống, cứ như thế nào đến chấm hết mực của thế giới tam thiên đại thiên, gom hết những thế giới đã chấm mực và không chấm mực ấy, nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi tính thành một kiếp, tuổi thọ của Phật là bao nhiêu? Đó là lỗi nói để diễn tả con người bất tử. Bất tử là không chết, bởi không chết nên tuổi thọ không làm sao tính toán được.

Như thế, đã biết rõ con người bất tửmãi mãi không chết song tại sao tôi nói bất tử mà ở trong Kinh nói Vô Sanh (Niết Bàn)? Sao tôi không nói Vô Sanh lại nói bất tử, vì tất cả thế gian thích sanh, sợ tử. Nói vô sanh thì họ buồn, nói bất tử thì họ chịu, nên tôi phải nói con người bất tử. Thật ra có sanh thì có tử, không sanh thì lấy đâu mà tử. Cho nên trong Kinh nói vô sanhchỉ thẳng cái nhơn, nhơn không thì quả làm gì có. Chúng ta quen nói bất tử thì chịu, nó vô sanh thì không ưa. Đây là lý do tôi nói khác trong Kinh. Nếu chúng ta nhận ra con người bất tử thì đó là Như Lai, vì thế nói tuổi thọ Như Lai không thể tính, không thể đếm, không làm sao biết được hết. Một nhà toán học tài tình cũng không tài nào tính nổi.

Kế phẩm Như Lai thọ lượng đến phẩm thứ mười bảy tên là Phân Biệt Công Đức. Phân biệtso sánh, so sánh người nhân hiểu tuổi thọ Phật, khác với những làm việc bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn... tôi dẫn một đoạn Phật nói “Nếu người nào khởi một niệm tin hiểu tuổi thọ Như Lai thì người có công đức không thể tính lường được”. Lại một đoạn nữa. Đức Phật nói: Nếu có người thiện nam thiện nữ, đối với thọ mạng Như Lai tin hiểu không nghi, người đó chính họ sẽ thấy Phật ở núi Kỳ Xà Quật. Vì các Vị Bồ Tát lớn và các vị Thanh Văn vây quanh nói pháp. Nghĩa là ai đối với thọ mạng dài của Phật, hiểu được thì người đó thấy Phật ở Hội Linh Sơn và nói pháp. Tại sao? Bởi thấy được con người bất tử là thấy Phật. Phật Thích Ca là thân xác thịt, con Phật ở đây nói là Phật Pháp thân. Nơi Phật Thích Cacon người bất tử. Nhận ra được gọi là thấy Phật. Đó là hiệu nghiệm của người nhận ra “Con người bắt tử”.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan khi nghe Phật giải thích trong cái sanh diệt có cái không sanh diệt. Đến đoạn cuối Thất Đại, Ngài tỉnh ngộ, tỉnh ngộ rối, Ngài làm một bài kệ tán Phật, Pháp và nói lên chí nguyện của Ngài. Bốn câu đầu là:

Diệu trạm tổng trì bất động tôn,

Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.

Bất lịch tăng ký hoạch pháp thân.

Bốn câu đó thôi, quý vị thấy khi nhận được con người bất tử là có lợi ích lớn. Câu đầu tán Phật “Diệu trạm là nhiệm mầu trong lặng, tổng trì là gồm nhớ giữ, bất động là chẳng lay động, tôn là đấng tôn trọng, chỉ Đức Phật là bậc nhiệm mầu trong lặng là gồm nhớ giữ, là không lay động. Câu thứ hai tán thán Pháp Phật, nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm là vua các kinh thật ít có trên đời. Nhờ nghe các kinh nầy Ngài tiêu được cái tướng điên đảo muôn ức kiếp. Khi ngộ được pháp thân thì nó tiêu tan hết. Thế nào là tướng điên đảo? Tướng điên đảo là cai gì mà tưởng thật. Cái thật mà tưởng là không bao giờ thấy cái giả hẳn là giả, cái thật hẳn là thật chớ chẳng phải là không. Quý vị thấy chỉ nhận đúng thì tướng điên đao liền tiêu. Đến câu cuối “Bất lịch tăng, kỳ hoặch pháp thân” nghĩa là không trải vô số kiếp mà được pháp thân. Tại sao vậy? Bởi vì trong kinh nói người tu theo đại thừa tiệm thứ từ sơ phát tâm trải qua thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướngtứ gia hạnhtrải qua số kiếp thứ nhất, gọi là tam thiền. Từ sơ địa đến bát địavô số kiếp thứ hai. Từ bát địa đến qua Diệu Giác (Phật) là vô số kiếp thứ ba. Người tu đến sơ-địa mới thấy được pháp thân. Cho nên hàng sơ-địa Bồ Tát gọi là phá một phần vô minh thấy một phần pháp thân, cũng gọi là phần giác. ngài A-Nan không cần trải qua số kiếp mà thấy được pháp thân, nên nói “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân, nên nói “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân”. Như vậy là tu vượt bực, cho nên nói là “đốn ngộ” thấy được một cách nhanh chóng, không cần thứ lớp, đây là lợi ích,khi nhận nơi mình có con người bất tử.

 

NGAY CON NGƯỜI SANH TỬCON NGƯỜI BẤT TƯÛ

 

Lý thật là ngay con người sinh tử đã có con người bất tử. Bọn phàm phu chúng ta si mê nên chẳng thấy. Chư Phật, Bồ Tát và những người đạt đạo đều nhận thấy. Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long nói: “Người người trọn nắm hạt châu linh xà, mỗi mỗi tự ôm hòn ngọc Linh Sơn mà không tự hồi quang phản chiếu. Nhớ châu quên chỗ nơi đâu không nghe nói. Khi ứng lỗ tai dường như hang trống, tiếng lớn tiếng nhỏ đều đầy đủ: khi ứng con mắt như ngàn mặt trời, muôn tượng không thể trốn hình bóng; nghĩ suy theo hình sắc mà tìm, dù Tổ Đạt Ma từ Tây Trúc sang cũng chịu thua”.

Hạt châu linh xà hay hòn ngọc Long Sơn đều chỉ cái sẵn có, chẳng sanh chẳng diệt nơi chúng ta. Ngay nơi thân sanh diệt đã có cái không sanh diệt. Nó ứng ra lỗ tai thì tiếng lớn tiếng nhỏ đều đủ. Ứng ra con mắt thì muôn tượng không thể trốn hình bóng. Thế mà chúng ta quên nó, cứ chạy theo cái suy nghĩ cho là tâm mình. Bản chất cái nghĩ suy là nương tựa với hình sắc âm thanh bên ngoài, là tướng sanh diệt. Nếu chúng ta cứ bám chặt vào nó, dù Tổ Đạt Ma từ Tây Trúc sang, cũng không làm sao chỉ cho chúng ta thấy tánh được. Chúng ta phải quay lại xem nơi mình, sáu cửa hằng phóng quang ấy, từ đâu mà ra, khả dĩ chúng ta sẽ nhận thấy hạt châu linh xà hay hòn ngọc Linh Sơn.

Thiền sư Việt Nam ngài Thuận Chơn nói kệ: Chơn tánh thường vô tánh: Chơn tánh thường không tánh Hà tằng hữu sanh diệt: Đâu từng có sanh diệt Thân thị sanh diệt pháp: Thân là pháp sanh diệt Pháp tánh vị tằng diệt: Pháp tánh chưa từng diệt. Ở đây nói pháp tánh tức là pháp thân. Thân tứ đại là pháp sanh diệt nên nói “Con người sanh tử” pháp thân không ngoài thân tứ đại nầy mà có, nếu khéo nhận ra, khác nào trong ngọn núi cháy, lượm được hòn ngọc tươi nhuần.

 

NHẬP CON NGƯỜI BẤT TỬ

 

Phần này, chúng tôi chỉ dẫn Kinh qua lời dạy của đức Phật cho quý vị thấy lối vào. Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm sau lời kệ tán Phật và thề nguyện rồi, ngài A Nan bạch Phật:Ví như kẻ lang thang được nhà vua tặng cho một ngôi nhà đẹp vô cùng, được nhà đẹp rồi, không biết cửa nào vô mà làm sao vô? Yêu cầu Phật chỉ cho cái cửa để vô nhà, sau đó Phật bảo 25 vị thánh thay nhau trình sở ngộ của mình, để chọn cái căn cơ thích hợp và cái cửa tiến vào ngôi nhà này. Như vậy ngộ rồi là biết mình có hòn ngọc báu hay biết mình có ngôi nhà đẹp, nhưng vào cửa chưa được để ngồi nghỉ ngơi trong nhà, còn phải nhập được. Vì vậy nên Kinh Pháp Hoa khai thị ngộ nhập. Ngộ là nhận ra, nhập là tiến thẳng vào, chứ không phải ngộ rồi là hài lòng nơi đó. Vào được trong mới thật là sống với cái “bất tử”. Thế nên người ngộ thì bớt được tưởng điên đảo song hoặc vi tế chưa hết, vẫn còn tham vẫn còn sân. Chừng nào nhập được mới sạch hết cái hoặc vi tế, chúng ta biết rõ người tu muốn nhập được tri kiến Phật hay con người bất tử thì công phu rất chín chắn, rất cẩn mật, chớ không phải là thường. Song nhập ở đâu và nhập bằng cách nào? Tuy chúng ta chưa nhập, nhưng thấy con đường về nhà và cái nhà của chúng ta ở chỗ nào, đi bao lâu tới để khỏi lầm. Trong kinh Niết bàn bài kệ đơn giản nhất mà cũng đầy đủ nhất là:

Chư hạnh vô thường: Các hạnh vô thường

Thị sanh diệt pháp: Là Pháp sanh diệt

Sanh diệt dĩ diệt: Sanh diệt diệt rồi

Tịch diệt vi lạc: Tịch diệt là vui

Các hành là hành nghiệp thuộc vô thường là pháp sanh diệt. Vọng tưởng của mình có phải là hành nghiệp không? Một niệm dấy lên là hành nghiệp. Hành nghiệp tế. Hành nghiệp ra thân khẩu là hành nghiệp thô. Vì vậy, còn một niệm là còn hành nghiệp. Nó thuộc về vô thường, vừa dấy niệm lên là sắc tướng sanh diệt, danh diệt là vô thường, nếu bám vào vô thường thì muôn đời không bao giờ nhập được con người bất tử. Người bất tử cái chân thường phải buông tức là tôi nói rũ sạch các duyên vô thường rồi, mới nhập được con người bất tử. Cho nên nói sanh diệt rồi tịch diệt là vui, tức là cái mầm sanh diệt diệt hết, cái tịch diệt hiện tiền kế đó là vui.

Giờ đây, tôi sang một đoạn kinh Di Đà trong kinh Phật nói: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn chuyên trì danh hiệu, nhược nhất nhật nhược nhị nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dự chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền” Ngài nói nếu có người thiện nam hay thiện nữ chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà, hoặc một ngày hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn là gì? Loạn là duyên sanh tử, loạn là động, còn niệm tức là còn dấy động, còn loạn là sanh tử. Nhất tâmnhư như bất động là nhập được con người bất tử. Nhập được như vậy, kinh Niết bàn gọi là “Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt mới là cái chơn thật, Phật A Di Đà dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ, tức là tuổi thọ vô lượng. Tuổi thọ vô lượngcon người bất tử chứ gì. Cõi Cực Lạc là vui tột, không còn sanh tử chẳng phải vui tột là gì?.

Quý vị so sánh Kinh Niết Bàn có vẽ trừu tượng, nói cái sanh diệt rồi, cái tịch diệt rồi, cái tịch diệt là vui. Mình không biết cái tịch diệt là vui thế nào. Người nào hết mầm sanh diệt, được tịch diệt rồi sẽ thấy, kinh A Di Đà nói có vẽ phấn khởi hơn, vì khéo dùng lối nhân cách hóa và cụ thể hóa. Nói rằng người niệm Phật, được nhất tâm bất loạn, khi sắp lâm chung sẽ thấy Đức Phật A Di Đà đến tiếp đón. Tức là có một đức Phật như con người đến đón mình về cõi Phật, là nhân cách hóa cõi Cực Lạc là nơi an vui tột độ. Là cụ thể hóa, cái vui của người tu là thoát ly được sanh tử, nếu thoát ly được sanh tử mới thật là vui. Chữ khổ trong tứ đế là gì? Tức là vô thường, còn bị vô thường chi phối là khổ, tứ khổ khổ, vân vân... đều y như trong lý vô thường, vì vậy muốn hết khổ phải hết mầm sanh tử, mầm sanh tử diệt rồi, cái đó mới thật vui. Đây là nhập con người bất tử. Nhập được con người bất tử, chừng đó tha hồ tự do tự tại. Nói theo kinh Di Đà thì được rước về cõi Cực Lạc tha hồ mà hưởng đủ thứ vui.

Dẫn chứng thứ ba là Kinh Lăng Nghiêm. Trong kinh Bồ Tát Quán Thế Âm, kể lại hạnh tu của Ngài cho đức Phậtđại chúng nghe, tôi dẫn một đoạn chánh văn: “Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập kỳ tịch, động tịnh nhi tướng, liễu nhiên bất sanh, như thị tiệm tăng, văn sở văn tận, tận văn bất trụ, giác sở giác không, không giác cực viên, không sở không diệt, sanh diệt dị diệt, tịch diệt hiện tiền, hốt nhiên siêu diệt, thế xuất thế gian thập phương viên minh, hoạch nhi thù thắng, nhất giả thương hợp thập phương chư Phật, bổn diệu giác tâm, dư Phật Như Lai, đồng nhất từ lực, nhị giả, hạ hợp thập phương nhất thiết lục đạo chúng sanh, dữ chư thánh chúng đồng nhất bi ngưỡng”.

Đoạn nầy Ngài kể lại công hạnh tu hành cho đến tịch diệt “sở ư văn trung” là trong tánh nghe ban đầu “nhập lưu văn sở” tức là nhập được tánh nghe rồi quên hết những tiếng động bên ngoài “sở nhập kỳ tịch, động tịnh nhi tướng, liễu nhiên bất danh là cái sở nhập được sâu lặng rồi, thì hai tướng động tịch không còn nữa. “Như thị tiệm tăng” tới đó lần lần tiến lên. “Văn sở văn tận” tức là cái hay nghe và cái bị nghe đều hết. Cái hay nghe và cái bị nghe hết rồi cũng không dừng ở đó tức là “tận văn bất trụ” và phải tiến lên giác sơ giác không, cái năng giác và cái sở giác cũng phải hết nữa. Năng giác sở giác hết rồi thì “không giác cực viên” cái không giác tròn đầy, không sở cũng không diệt. Giai đoạn đó diệt rồi, mới đến sanh diệt dị diệt, tịch diệt hiện tiền, khi tịch diệt hiện tiền, bổng dưng siêu xuất cả thế gianxuất thế gian thấy mười phương đều tròn sáng, được hai thứ thù thắng. Cái thù thắng thứ nhất là trên hợp với mười phương chư Phật, tâm diệu giác sẵn có của mình hợp với tâm diệu giác của chư Phật mình và Phật đồng một lòng tu. Hai là hợp với tất cả chúng sanh trong lục đạo, đồng một lòng bi ngưỡng. Trên hợp với chư Phật nên có lòng từ, dưới hợp với chúng sanh nên có lòng bi.

Ở đây chúng ta thấy rõ, muốn đi đến cứu cánh, cũng phải sanh diệt hết rồi, tịch diệt hiền tiền, không phải tới tịch diệt hiện tiền là hết. Chừng đó mới thấy siêu xuất của thế gianxuất thế gian. Được siêu xuất thề và xuất thế gian rồi, mình mới hợp với chư Phật có lòng từ ban vui cho chúng sanh. Hợp với chư Phật có lòng từ ban vui cho chúng sanh. Hợp với chúng sanh khởi lòng bi, nhổ hết gốc khổ cho họ. Đó là công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Tôi đối chiếu sơ qua công hạnh nầy với mười mục chăn trâu trong nhà thiền. Thiền sư trước kia có phác họa mười mục chăn trâu để kẻ hậu tu thấy bước tiến từ thô đến tế của mình. Từ “Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở” vào được trong tánh nghe quên hết tiếng bên ngoài. Ví như con trâu được chăn điều phục nắm mũi lôi nó về, nó quên cỏ quên lúa mạ ở ngoài, chỉ theo người chăn xoay trở lại, đến chỗ “động tịnh nhi tướng liễu nhiên bất sanh”. Khi con trâu thuần thục, chú mục đồng ngồi dưới cội cây thổi sáo, trâu nằm im trên bãi cỏ, không còn đi đứng phá phách gì nữa. Đến văn sở tận là chỉ bức tranh không còn trâu chỉ còn thằng chăn. Đến “giác sở giác không” thì thằng chăn mất luôn, năng giác sở giác đều không, rồi “không sở không diệt” là tới chỗ một vòng tròn, là mất luôn năng không sở không. Phải qua được vòng tròn nầy “tịch diệt hiện tiền” là bức tranh thứ chín “lá rụng về cội, chim bay về tổ” tức là hợp với tâm diệu giác của chư Phật, hợp với tất cả chúng sanh lòng bi ngưỡng, chỉ thiền sư buông thõng tay vào chợ, đem mình vào trong chúng sanh là bức họa thứ mười. Trong nhà thiền thường nói “Ông chỉ vào Phật giới chưa chỉ vào ma giới”. Phật giới là chỗ hợp với mười phương chư Phật. Ma giới là chỗ hợp với tất cả chúng sanh.

Thế nên người tu muốn đến nơi đến chốn là phải trải qua những giai đoạn như trên. Chớ không đơn giản. Vậy mà có một số người nghe hiểu sơ sài, hài lòng tưởng mình đã hay, uông trà ngâm thơ, cho như vậy là đúng. Đây là bệnh không đi đến đâu hết, sanh tử vẫn còn nguyên huống là người chưa được gì hết!

Cho nên đường tu không đơn giản, không phải bình dị như người ta tưởng mà phải hết sức nổ lực, hết sức cố gắng, tận lực phấn đấu cho đến ngày viên mãn. Trong nhà thiền nói con người can đảm tột độ là “giết người mà không ngó lại” mới khả dĩ tiến đạo. Còn chúng ta mới rầy người khác buồn, thì đã nhìn lại rồi, xem mặt họ có buồn chăng. Chúng ta cái gì đã bỏ lại tiếc, đã qua thì ngó lại không bao giờ dám dứt khoát, bởi không dứt khoát, nên không tiến được, phải gan dạ dứt khoát, thì khả dĩ tiến tới chỗ cuối cùng. Con đường trước mắt của mình hoa thơm cỏ lạ dẫy đầy, song trên đường đi cũng gai chông không ít. Chúng ta không phải đi vào ngõ bí, đi vào lối cùng, mà đang đi đến chỗ vô biên vô tận. Thật là “nguồn cùng núi tột” nghi không lối, hoa nở liễu xanh riêng một thôn (Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh biệt nhất thôn). Vì vậy khi biết rõ chỗ đi của mình, đến đó có những cái gì để chúng ta hăng hái tiến lên, trong khi tiến đương nhiên phải có gai góc, khó khăn không phải làm cho chúng ta chùn chân, mà để cho chúng ta nỗ lực, để thấy khả năng của mình. Khi nỗ lực rồi, chúng ta dẽ thấy kết quả tốt, nhưng nói nỗ lực ở đây không phải bậm môi trợn mắt cả ngày như giận ai lắm vậy, nỗ lực ở đây là hằng tỉnh giác, lúc nào cũng tỉnh, lúc nào cũng giác. Được như vậy chúng ta mới rũ sạch duyên sanh tử, vào được con người bất tử. Đó là chủ yếu tôi muốn nói chuyện với quý vị hôm nay.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10366)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
(Xem: 9482)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9193)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31099)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20641)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 22964)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17552)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11537)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21247)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8673)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22011)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13228)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38307)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13260)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24094)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 14873)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24391)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10080)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17512)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22529)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22514)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7422)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 13979)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 26909)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26700)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19718)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20674)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21212)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13143)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13279)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29692)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13824)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13848)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32280)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 23823)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29635)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31366)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34081)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18346)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19372)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32679)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18624)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30688)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16048)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26645)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32475)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39207)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40308)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19195)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19208)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant