Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3 Giáo Lý

15 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4485)
Chương 3 Giáo Lý

ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY   
Tác giả: Nina Van Gorkom

Chương 3 Giáo lý

Đức Phật đã chứng tỏ lòng từ bi đối với loài người thông qua việc giảng pháp của Ngài. Mọi người có thể phân vân tại sao chính Giáo pháp lại chứng tỏ sự từ bi của Đức Phật. Chẳng nhẽ không có những cách khác để giúp mọi người hay sao, ví dụ như đi thăm những người ốm và nói những lời ái ngữ với người khác để làm cho họ vui? Đúng là chúng ta có thể giúp những người bạn bằng việc làm thiện và nói những lời ái ngữ. Tuy nhiên, không thể cho họ hạnh phúc thực sự bằng cách ấy. Khi ta có từ tâm với người khác, ta có thể giúp họ ở chừng mực làm cho họ cảm thấy thư giãn hay bớt buồn khổ hơn trong một khoảnh khắc nào đó. Tuy nhiên, có những người luôn có xu hướng lo lắngbuồn rầu, dù cho chúng ta có đối xử tử tế với họ đến đâu đi chăng nữa.

Đức Phật biết rằng nguyên nhân sâu sắc nhất của hạnh phúcđau khổ nằm trong mỗi con người. Không thể mang đến cho người khác hạnh phúc thực sự; chúng ta chỉ có thể là một nhân duyên cho họ cảm thấy hạnh phúc trong một thời gian. Đức Phật đã giúp mọi người bằng cách hiệu quả nhất: Ngài giúp họ có được hiểu biết đúng về cuộc sống của mình, về bản thân họ, và về cách tìm kiếm hạnh phúc thực sự.

Các đệ tử của Ngài đã theo tấm gương của Ngài và giúp người khác bằng việc dạy họ Giáo pháp. Chúng ta đọc trong Kinh giáo giới Channa (Trung bộ kinh Tập III, số 144) rằng ngài Xá Lợi Phất và ngài Maha Cunda, trong khi đang ở tại núi Linh Thiếu, đã tới thăm một vị tì kheo bị ốm có tên là Channa. Đầu tiên ngài Xá Lợi Phất hỏi Channa cảm thấy thế nào và sau đó ngài đã cho Channa các loại thực phẩm và thuốc phù hợp, chăm sóc Channa theo cách vị ấy muốn. Tuy nhiên, ngài Xá Lợi Phất biết rằng lời nói từ ái và các việc làm thiện thì chưa đủ. Đến thời điểm thích hợp, ngài Xá Lợi Phất và ngài Maha Cunda đã nói Giáo pháp cho Channa nghe, nhằm giúp vị ấy có được cái hiểu đúng về cuộc đời của mình.

Trong Kinh vô tránh phân biệt (Trung bộ kinh Tập III, số 139), chúng ta đọc rằng Đức Phật, khi ngự gần Savatthi trong động Jeta, đã nói về Bát Chánh đạo hay con đường “Trung đạo”. Chúng ta không nên thiên về phía thỏa mãn ngũ dục hoặc mặt khác thiên về thực hành khổ hạnh. Đức Phật bảo với các đệ tử của mình rằng họ không nên nói với người khác rằng họ đang đi con đường chánh đạo hay phi đạo; Ngài nói rằng không nên có sự tán thành hay phản đối người khác, mà nên dạy họ đâu là con đường đúng và đâu là con đường sai. Các đệ tử Phật cần dạy người khác những nguyên nhân nào mang đến kết quả nào. Chỉ nên dạy Giáo pháp mà thôi. Giáo pháp có nghĩa là tất cả những gì là thực. Đức Phật giúp mọi người phát triển hiểu biết đúng về tất cả những gì chúng ta có thể kinh nghiệm, cho dù là đó là tốt hay xấu.

Nếu chúng ta muốn loại bỏ phiền não thì trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là tâm bất thiện và thế nào là tâm thiện và cần hay biết chúng khi chúng sinh khởi. Chỉ khi ta hay biết về các citta khi chúng xuất hiện, chúng ta sẽ biết chúng như chúng là. Chúng ta sẽ không thể biết citta bằng sự phỏng đoán. Như chúng ta đã thấy, citta không kéo dài. Citta sinh và diệt ngay lập tức và được tiếp nối bởi citta tiếp theo. Chỉ có một citta tại một thời điểm. Cuộc đời bao gồm một chuỗi citta không gián đoạn, sinh và diệt liên tục. Không có khoảnh khắc nào không có citta. Có rất nhiều loại citta đảm nhận các chức năng khác nhau như thấy, nghe và nghĩ. Hơn nữa, có tâm bất thiện (akusala citta), tâm thiện (kusala citta). Một tâm bất thiện và một tâm thiện không thể sinh khởi cùng một khoảnh khắc vì chỉ có thể có một tâm tại một thời điểm. Tuy nhiên, tâm bất thiện có thể sinh khởi ngay sau tâm thiện vừa mới diệt đi, kể cả trong suốt thời gian chúng ta đang làm một việc tốt. Khi tâm thiện diệt đi thì sự tiếc nuối về việc làm tốt của mình có thể sinh khởi. Khi ấy lại là tâm bất thiện.

Trong Kinh Giáo giới Channa đã nhắc tới ở trên, chúng ta đọc rằng Channa phải chịu đau đớn rất khắc nghiệt. Vì vị ấy không thể chịu đựng được cái đau hơn nữa, vị ấy quyết định tự tử. Đức Phật biết rằng trước khi chết, Channa có một tâm thiện sinh khởi sau tâm bất thiện đã thúc đẩy Channa làm việc bất thiện đó. Vị ấy đã có thể tự thanh lọc phiền não sau việc làm của mình. Vì vậy Đức Phật đã nói “Channa đã cầm dao tự đâm mình mà không tạo nên sự chê trách”. Chúng ta không biết về tâm của người khác từ việc làm bên ngoài của họ, bởi vì chúng ta không biết từng khoảnh khắc khác nhau của citta. Chúng ta chỉ có thể biết được về bản thân mình tại từng thời điểm có tâm thiện hay tâm bất thiện, và ngay cả điều ấy cũng khó khăn lắm rồi.

Tâm bất thiện nằm ở trong ba “nhân” bất thiện (akusala hetus). Chúng bao gồm: tham (tiếng Pali là lobha), sân (tiếng Pali là dosa) và si (tiếng Pali là moha).

Từ “nhân” ở đây có nghĩa là cái gốc của tâm. Gốc của tâm cũng giống gốc rễ của một cái cây, nó làm cho cây tăng trưởng. Có nhiều mức độ khác nhau của ba loại tâm bất thiện trên.

Tất cả các tâm bất thiện đều được tạo bởi tâm si, moha. Chẳng hạn, tâm si không biết cái gì là bất thiện và cái gì là thiện, và không biết nguyên nhân nào mang đến kết quả nào trong cuộc sống. Có nhiều mức độ khác nhau của si. Một con thú có rất nhiều tâm si; vì nó không biết về thiện và bất thiện, nó không biết làm thế nào để vun trồng thiện pháp. Tuy nhiên, không chỉ thú vật mới có tâm si mà con người cũng có rất nhiều moha. Tâm bất thiện sinh khởi thường xuyên hơn tâm thiện và vì vậyvô số khoảnh khắc của moha, bất kể là chúng ta đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm. Moha chỉ có thể được tận diệt hoàn toàn khi paññå đã được phát triển tới mức độ hoàn hảo, tức là khi chúng ta trở thành một vị a la hán tại thời điểm đạt được tầng thứ tư của sự giác ngộ.

Khi tâm sinh khởi kèm với tâm tham và tâm si thì nó được gọi là “tâm tham căn” hay tâm có nhân tham, lobha-múla-citta. Tại thời điểm đó không chỉ có moha là gốc chung cho tất cả các tâm bất thiện mà cũng có cả lobha. Tâm tham căn có có moha và lobha làm nhân thì khác với tâm chỉ có moha, hay sự vô minh về các thực tại. Lobha có thể là sự tham lam, khát dục, các mong muốn vị kỷ, và cũng có thể là một dạng rất vi tế của sự dính mắc, một dạng dích mắc mà chúng ta khó nhận ra nếu chúng ta chưa có cái hiểu đúng. Lobha có thể đi kèm với cảm thọ lạc. Chẳng hạn, khi chúng ta đang thưởng thức bản nhạc hay, khi đó có tâm tham căn. Khi đó tâm là akusala, mặt dù loại lobha này thì không thô tháo như là sự tham lam hay khát dục . Chúng ta có thể có xu hướng nghĩ rằng bất cứ khi nào có cảm thọ lạc, citta đi kèm với cảm thọ này hẳn là tâm thiện. Tuy nhiên khi có thọ lạc thì tâm chưa chắc là tâm thiện; thọ lạc có thể đi kèm với tâm bất thiện. Chẳng hạn, khi chúng ta làm một việc tốt có thể có tâm thiện cùng với cảm thọ lạc, nhưng khi chúng ta cảm thấy dễ chịu với tiếng nhạc hay hoặc thấy cảnh đẹp, tâm lúc ấybất thiện (akusala); đó là tâm tham căn cùng đi kèm với thọ lạc. Chúng ta rất dễ không hay biết về sự thực. Chúng ta coi trọng cảm thọ đến mức chúng ta không còn thấy gì khác nữa. Chúng ta không có khả năng biết tâm đó là kusala hay akusala vì chúng ta chỉ chú ý đến cảm thọ vào thời điểm đó.

Tâm tham căn, tâm có gốc rễ trong sự dính mắc, có thể đi kèm với thọ lạc hoặc thọ xả. Khi chúng ta muốn làm việc gì đó như đứng lên, đi, hay cầm một đồ vật nào đó, tâm tham căn sinh khởi có thể đi kèm với thọ xả. Thông thường chúng ta không có thọ lạc khi chúng ta đứng lên hay lấy cốc nước. Chúng ta không thể ngăm việc có tâm tham sinh khởi thường xuyên. Tất cả mọi người, trừ các vị a la hán, đều có lobha.

Đức Phật không nói với những người vẫn còn phiền não rằng đó là “tội lỗi”. Đức Phật chỉ ra tất cả những gì là thực và Ngài giải thích nguyên nhân nào mang đến kết quả nào. Việc làm xấu của ai đó sẽ mang đến cho họ kết quả riêng của nó, giống như hạt giống sẽ tạo ra cái cây. Đó là luật nhân quả, hay “nghiệp” (kamma) và “quả của nghiệp” (vipaka). Đức Phật giải thích cho các đệ tử rằng không nên có sự tán thành hay phản đối về ai đó, mà chỉ nên đơn giản giảng Giáo pháp mà thôi. Bằng cách ấy, mọi người sẽ biết cái gì là thực. Lobha là thực và vì thế chúng ta nên biết lobha là gì, đặc tính của nó như thế nào và khi nào nó sinh khởi.

Một loại nhân bất thiện khác là dosa, tâm sân. Khi tâm sinh khởi đi kèm với dosa và moha (sân và si), khi đó citta được gọi là “tâm sân căn” (dosa mula citta), tâm có nhân “sân”. Ở thời điểm đó thì không chỉ có moha, cái có mặt trong mọi tâm bất thiện, mà còn có cả tâm sân – dosa. Dosa xuất hiện ở dạng thô nhất là sự giận dữ hay ác ý. Khi chúng ta làm đau hay giết một chúng sinh, hoặc khi chúng ta nói lời nặng nề, khi chúng ta chửi thề, khi đó có tâm sân. Dosa luôn luôn đi kèm với thọ khổ.

Cũng có những dạng vi tế hơn của dosa: dosa có thể là một sự khó chịu nhẹ khi chúng ta thấy hay nghe điều gì đó không ưa thích, hay khi chúng ta ở trong trạng thái không vui vẻ. Dosa có thể được nhận thấy bởi cảm thọ đi kèm với nó. Kể cả khi có cảm giác khó chịu rất nhẹ, chúng ta có thể chắc chắn rằng đang có dosa. Dosa sinh khởi rất thường xuyên trong ngày. Chúng ta chắc chắn có dosa khi có tiếng động to hay nhìn thấy thứ gì xấu xí.

Có ba loại “nhân thiện” hay nhân tịnh hảo (sobhana hetus), đối lập với nhân bất thiện. Đó là:

Vô tham (alobha)

Vô sân (adosa)

Trí tuệ (amoha hoặc paññå)

Tâm thiện thì không đi kèm với lobha, dosa hay moha. Chúng luôn đi kèm với vô tham, vô sân, nhưng không phải lúc nào cũng với paññå. Vì vậy, citta có thể là tâm thiện không kèm với trí (paññå). Chẳng hạn, chúng ta có thể giúp đỡ người khác mà không có hiểu biết rằng giúp đỡ là việc thiện và rằng thiện pháp đó sẽ mang đến kết quả tốt. Tuy nhiên, khi có trí tuệ, tâm sẽ ở mức độ thiện cao hơn. Nếu như ta giữ giới chỉ bởi vì chúng ta coi đó là một luật lệ, được quy định trong Giáo lý mà không có chút hiểu biết nào về nguyên nhân của các giới ấy, các việc làm xấu có thể được ngăn ngừa, nhưng không phải luôn luôn. Nếu như sự hấp dẫn quá mạnh, chúng ta sẽ phạm giới. Nếu ai đó hiểu về những việc làm bất thiệnviệc làm thiện, biết được hậu quả của những việc làm ấy, thì hiểu biết ấy sẽ là nhân duyên cho sự giữ giới một cách thường xuyên hơn. Chúng ta có thể phát triển các thiện pháp hơn bằng việc hiểu biết về các thực tại, hiểu về nguyên nhân và kết quả của chúng.

Tất cả mọi người, ngoại trừ vị a la hán, đều có cả tâm thiện và tâm bất thiện. Mỗi tâm sinh khởi bởi nhân duyên riêng của nó. Tâm không thể sinh khởi mà không có nhân duyên. Tùy thuộc vào nhân duyên khác nhau mà tâm là thiện hay bất thiện. Tất cả chúng ta đều tích lũy nhân duyên cho cả thiện và bất thiện pháp. Nếu tâm hiện giờbất thiện, chúng ta đang tích lũy nhân duyên cho bất thiện nhiều hơn và nếu tâm hiện giờ là thiện, chúng ta lại tích lũy thêm nhân duyên cho thiện pháp. Chẳng hạn, khi chúng tacảm thọ khó chịu rất nhẹ do tâm sân, khi đó có tâm sân căn. Nếu tâm sân căn xuất hiện thường xuyên, chúng ta tích lũy tâm sân và sân trở thành một thói quen. Nếu chúng ta dễ dàng có tâm sân mạnh mẽ, nó có thể thúc đẩy những việc làm bất thiệnlời nói bất thiện.

Chúng ta có thể phân vân làm thế nào các thiện và bất thiện pháp có thể được tích lũy, vì mỗi tâm sinh và diệt hoànt oàn. Mỗi tâm sinh và diệt hoàn toàn nhưng nó tạo duyên cho tâm tiếp theo. Tâm sinh và diệt theo tiếp nối nhau. Đó là lý do tại sao các tích lũy quá khứ có thể tiếp nối từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Nếu chúng ta hiểu sự tích lũy của mỗi người khác nhau đến thế nào, chúng ta sẽ bớt xu hướng trách cứ người khác khi họ làm việc sai lầm. Chúng ta sẽ giúp họ có được cái hiểu đúng về sự tích lũy kusala và akusala. Nếu ta có thêm cái hiểu đúng về nhân duyên khiến chúng ta hành xử như hiện giờ, chúng ta sẽ có thể hướng đến một cuộc sống thiện hơn.

Chúng ta có thể tự hỏi Đức Phật dạy như thế nào về ý chí hay tác ý thúc đẩy chúng ta làm việc ác và việc tốt. Chẳng lẽ lại không có “ý chí tự do” nào có thể điều khiển các hành động, lời nóisuy nghĩ của chúng ta hay sao? Khi chúng ta nghĩ đến “ý chí tự do”, thường thì chúng ta nghĩ đến một cái “ngã”, người có thể kiểm soát những quyết định của chúng ta để làm việc tốt hay việc xấu. Tuy nhiên, citta sinh khởi bởi những nhân duyên của nó, không có cái “ngã” hay con người nào có thể khiến cho citta sinh khởi bằng ý chí như mong muốn.

Thuật ngữ Pali “kamma” có nghĩa đen là hành động. Trên thực tế, kamma là tác ý hay ý chí. Nó khác với cách hiểu thông thường là “ý chí tự do”. Kamma không kéo dài, nó sinh và diệt cùng với citta. Vì vậy, chúng ta không nên coi kamma là “ngã” hay thuộc về “ngã” nào. Nghiệp thiện (kusala kamma) hay nghiệp bất thiện (akusala kamma) là tác ý thúc đẩy các việc làm thiện hay bất thiện. Chẳng hạn, có thân nghiệp bất thiện khi chúng ta đánh ai đó; có khẩu nghiệp bất thiện khi chúng ta nói lời thô tháo hoặc nguyền rủa ai đó; có ý nghiệp bất thiện khi chúng taý định lấy đồ của người khác, hay khi chúng taý định giết ai đó.

Đức Phật dạy rằng tất cả mọi người đều phải kinh nghiệm quả do nghiệp mà người ấy đã tạo ra; chúng ta sẽ gặt hái những gì chúng ta đã gieo trồng. Kamma là nhân tạo ra quả của nó. Kết quả tinh thần của kamma là một loại citta, được gọi là “tâm quả” (vipakacitta). Nghiệp bất thiện (akusala kamma) sẽ mang đến kết quả khó chịu hay tâm quả bất thiện (akusala vipakacitta); nghiệp thiện sẽ mang đến kết quả dễ chịu hay tâm quả thiện (kusala vipakacitta)

Mọi người sinh ra với khả năng tinh thần khác nhau, với hình thức thân thể khác nhau và trong các hoản cảnh khác nhau. Trong Tiểu kinh nghiệp phân biệt (Trung bộ kinh Tập III, số 135), chúng ta đọc rằng khi Đức Phật ngự gần Savatthi ở động Jeta, thanh niên Subha đi đến hỏi Ngài do nhân gì dẫn đến sự khác biệt giữa các hạng người:

“Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì giữa loài Người với nhau, khi họ là loài Người, lại thấy có người liệt, có người ưu ?Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi thấy có người đoản thọ, có người trường thọ; chúng tôi thấy có người nhiều bệnh, có người ít bệnh; chúng tôi thấy có người xấu sắc, có người đẹp sắc; chúng tôi thấy có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn; chúng tôi thấy có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn; chúng tôi thấy có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý; chúng tôi thấy có người trí tuệ yếu kém, có người có đầy đủ trí tuệ”

Đức Phật đã trả lời Subha như sau:

“Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.”

Không phải chỉ có việc sinh ra ở hoàn cảnh nào đó mới là kết quả của nghiệp. Trong suốt cuộc đời, chúng ta nhận những kết quả khó chịu và dễ chịu. Tất cả mọi người đều chỉ muốn kinh nghiệm những thứ dễ chịu qua mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Tuy nhiên, tất cả mọi người chắc chắn đều phải kinh nghiệm cả những thứ dễ chịu và khó chịu thông qua năm căn bởi vì mỗi người đều đã tạo nên những nghiệp thiện và bất thiện trong quá khứ. Một việc mà chúng ta đã làm có thể tạo ra một kết quả chỉ ngay sau đó, hoặc nó có thể tạo ra kết quả sau thời gian dài. Chúng ta nên nhớ rằng, tác ý hay nghiệp tạo nên một hiện tượng tinh thần và rằng vì thế nó có thể được tích lũy. Như vậy, nó có thể mang đến kết quả về sau. Đức Phật dạy rằng nghiệp bất thiện và nghiệp thiện mà chúng ta đã tích lũy trong suốt cuộc đời và trong vô số kiếp sống trước kiếp sống này đều tạo ra kết quả của nó khi có đủ nhân duyên cho nó sinh khởi. Tâm quả (vipakacitta) là kết quả của nghiệp. Khi chúng ta thấy những thứ không vừa mắt, tại thời điểm đó có tâm quả bất thiện, là quả của nghiệp bất thiện. Những tâm quả bất thiện này nhận một đối tượng khó chịu thông qua mắt. Khi chúng ta thấy thứ vừa mắt thì đó là tâm quả thiện, là kết quả của nghiệp thiện, nó nhận đối tượng dễ chịu thông qua mắt. Khi chúng ta nghe thứ khó nghe thì đó là tâm quả bất thiện, là kết quả của nghiệp bất thiện, nó nhận đối tượng khó chịu thông qua tai. Khi chúng ta nghe điều khó chịu thì đó là tâm quả bất thiện, là kết quả của nghiệp bất thiện, nó nhận đối tượng khó chịu thông qua tai. Khi chúng ta nghe thứ dễ chịu thì đó là tâm quả thiện, là quả của nghiệp thiện, nó nhận đối tượng dễ chịu thông qua tai. Luôn có tâm quả mỗi khi chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm hay có cảm giác tác động trên thân. Chúng ta không thể ngăn cản sự sinh khởi của tâm quả; chúng ta không thể ngăn cản việc thấy, nghe, ngửi, nếm hay nhận cảm giác thông qua thân căn. Như vậy mỗi tâm, kể cả tâm quả, đều có nhân duyên riêng của nó; không ai có thể làm cho tâm sinh khởi bằng ý chí. Mỗi một tâm quả nhất định sinh khởi tại giây phút hiện tại đều nằm ngoài sự kiểm soát. Khi chúng ta làm những việc tốt, chúng ta có thể chắc chắn rằng những việc làm tốt đó sẽ mang lại kết quả dễ chịu, nhưng thời điểm trổ quả cũng còn tùy thuộc vào những nhân duyên khác.

Tâm quả bất thiện kinh nghiệm đối tượng khó chịu thông qua mắt không giống với tâm quả bất thiện kinh nghiệm đối tượng khó chịu thông qua tai. Không có một cái ngã hay một người nào đó đang kinh nghiệm các đối tượng khó chịu và dễ chịu khác nhau thông qua năm căn. Mỗi tâm đều có điều kiện nhân duyên riêng của nó và nó khác với tất cả các tâm khác. Càng nhận ra sự thực này, chúng ta càng bớt tin vào sự tồn tại của “ngã”.

Tâm quả sinh và diệt trong một sát na, giống như tất cả các tâm khác. Sau khi tâm quả diệt đi sẽ có tâm khác sinh khởi; chẳng hạn, một tâm thích hay không thích đối tượng, đó là tâm tham căn hay tâm sân căn. Nếu mọi người không biết các loại tâm khác nhau, họ có thể có xu hướng suy nghĩ rằng thích hay không thích chỉ là quả. Tuy nhiên, thích hay không thích sinh khởi sau khi tâm quả diệt đi; chúng không phải là quả của nghiệp. Tâm tham căn hay tâm sân căn không phải là tâm quả mà là tâm bất thiện.

Các loại tâm khác nhau tiếp nối nhau rất nhanh. Chẳng hạn, khi chúng ta nghe âm thanh mạnh, tâm quả sinh khởi tại giây phút âm thanh được tiếp nhận qua tai và ngay lập tức diệt mất. Giây phút tâm quả xuất hiện cực kỳ ngắn ngủi. Sau đó có thể có các tâm bất thiện. Chẳng hạn, thích hay không thích sinh khởi và nó theo sát đến mức dường như nó sinh khởi cùng thời điểm với cái nghe. Trên thực tế, những tâm đó không sinh khởi cùng một khoảnh khắc, mỗi tâm đều có nhân duyên riêng và đảm nhận chức năng riêng của nó Tâm quả là kết quả của nghiệp bất thiện hay nghiệp thiện đã làm trước kia. Thích hay không thích sau tâm quả là bất thiện pháp. Chúng ta cần nhận ra rằng, qua việc sinh khởi của tâm bất thiện sẽ lại càng tích lũy thêm tâm bất thiện, và rằng điều đó sẽ dẫn tới thêm nhiều bất thiện pháp trong cuộc sống của chúng ta.

Nhiều khi chúng ta không biết tại lúc nào có tâm quả và lúc nào có tâm bất thiện, bởi vì chúng ta cho các cảm thọchúng ta kinh nghiệm quá quan trọng. Cảm thọ lạc đi kèm với tâm tham căn và cảm thọ khổ đi kèm với tâm sân căn có thể mạnh đến mức chúng ta hoàn toàn bị cuốn theo các cảm thọ ấy. Vì vậy chúng ta không thể thấy mọi thứ như chúng là.

Một phần của cuộc đời chúng ta là để tiếp nhận các kết quả dễ chịu và khó chịu, và một phần trong cuộc đời là có các tâm thiện và bất thiện đang thúc đẩy các việc làm thiện và bất thiện. Những việc làm này tạo nhân duyên cho cuộc sống trong tương lai, chúng tạo nhân duyên cho kết quả sẽ nhận được trong tương lai. Nếu ta có nhiều hiểu biết hơn về tâm quả, kết quả của những việc làm của chính mình, hiểu biết ấy sẽ giúp chúng ta kiên nhẫn hơn khi các kết quả khó chịu xảy ra trong cuộc đời. Chúng ta sẽ không trách cứ người khác về những quả khó chịu mà chúng ta nhận được, bởi vì nghiệp là nguyên nhân thực sự của quả. Chúng ta sẽ bớt chạy theo các cảm thọ liên quan đến quả khi chúng ta biết được các tâm khác nhau sinh khởi tại những khoảnh khắc khác nhau.

Như vậy, Đức Phật đã chứng tỏ lòng từ bi lớn lao của Ngai khi dạy mọi người hiểu được thực tại, qua việc dạy Giáo pháp cho họ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3960)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3134)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7118)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5663)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3987)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3110)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12218)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5163)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3895)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9253)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7521)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27153)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5958)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5677)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6190)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5740)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5520)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7861)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4800)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12196)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21890)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6532)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7493)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6768)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6316)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8595)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6118)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5725)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14304)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20328)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6962)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6877)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6432)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6529)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6047)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7468)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7432)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8581)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6512)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6915)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10526)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19943)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30262)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16253)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19704)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11096)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14411)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7823)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10514)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7978)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant