Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4 Các Việc Thiện

15 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4221)
Chương 4 Các Việc Thiện

ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY  
Tác giả: Nina Van Gorkom

Chương 4 
Các việc thiện


Đức Phật giúp mọi người có cái hiểu đúng về thiện phápbất thiện pháp; Ngài đã giúp họ bằng cách dạy họ Giáo pháp; Giáo pháp vượt lên trên tất cả các món quà khác, bởi vì món quà ích lợi nhất mà ta có thể tặng người khác là giúp họ phát triển hiểu biết đúng để họ có được cuộc sống thiện hơn. Bằng cách ấy họ sẽ có thêm hạnh phúc.

Trong Tăng chi bộ kinh (Quyển II, Chương IV, Số 2) chúng ta đọc rằng không dễ gì trả ơn cha mẹ vì những gì họ đã làm cho chúng ta:

Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai ? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt một trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, đưa chúng vào cuộc đời này.

Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, an trú, hướng dẫn các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giớ ; đối với mẹ cha tham lam, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố th ; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.

Trong bài kinh này, Đức Phật đã chỉ ra tầm quan trọng của việc giúp người khác có hiểu biết đúng về sự phát triển thiện pháp; Ngài đã giải thích rằng đó là cách để trả ơn cha mẹ. Việc giúp cha mẹlòng tin được nói đến trước. Tuy nhiên từ “lòng tin” không được sử dụng trong nghĩa “tin ở một người”. Đức Phật không muốn mọi người làm việc thiệnvâng lời Ngài hay tuân theo một luật lệ nhất định nào đó. Tin có nghĩa là tin vào thiện pháp, tin rằng việc tích lũy thiện pháplợi lạc. Vì thế, mỗi khi có thiện pháp thì sẽ có tín tâm. Sau tín tâm, bài kinh nói trên đề cập đến “giới” và sau đó là “bố thí”. Trí tuệ hay hiểu biết đúng được nói đến sau cùng.

Khi nghiệp thiện được giải thích theo các cách khác nhau trong bài kinh đó, bố thí (hay danna) luôn được nhắc đến trước tiên, trì giới (hay sila) được đề cập tiếp theo và sau đó là “bhavana” hay sự phát triển tâm trí. Có nhiều cách để phát triển thiện pháphiểu biết về những cách tạo duyên cho việc thực hiện chúng. Paññå, hay trí tuệ, là yếu tố vượt lên trên tất cả, tạo duyên cho việc loại trừ bất thiện pháp và phát triển thiện pháp. Có thể có dana và sila mà không có paññå, nhưng khi có paññå, danna và sila sẽ ở mức độ thiện cao hơn. Sẽ không thể có sự phát triển tâm trí mà không có paññå. Paññå là yếu tố không thể thiếu cho sự phát triển tâm trí, và mặt khác paññå được phát triển thông qua bhavana.

Paññå, trí tuệ hiểu mọi thứ như chúng là, sẽ giúp mọi người có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Có nhiều mức độ của paññå. Khi paññå được phát triển, phiền não sẽ được loại bỏmọi người sẽ tìm thấy sự bình an trong tâm. Rất lợi lạc khi phát triển hiểu biết đúng về cái gì là bất thiện và cái gì là thiện, cũng như giúp những người khác phát triển hiểu biết này.

Tất cả những tâm bất thiện đều được tạo bởi tâm si hay moha. Có những loại tâm bất thiện khác nhau. Một số tâm bất thiện chỉ bắt rễ từ tâm moha. Cũng có cả tâm bất thiện bắt rễ từ tâm si và tâm tham. Tâm tham là sự dính mắc, vị kỷ hay tham lam. Hơn nữa có cả tâm bất thiện bắt rễ từ tâm si và tâm sân. Tâm sân là ghét bỏ, ác ý hay sự giận dữ. Các việc làm bất thiện được thúc đẩy bởi các tâm bất thiện.

Khi có tâm thiện thì không có tâm tham, sân hay si sinh khởi cùng với tâm. Các việc làm thiện được bắt nguồn bởi các tâm thiện. Khi chúng ta bố thí, trì giới hay phát triển tâm trí thì không có tham, sân hay si sinh khởi cùng tâm thiện, tâm tạo nên các việc làm thiện. Thật cần thiết để biết thêm về bố thí, trì giới hay phát triển tâm trí để có một cuộc sống thiện hơn.

Một cách phát triển thiện phápbố thí – danna. Danna là cho những thứ cần thiết cho người khác, chẳng hạn, cho thức ăn, quần áo hay tiền bạc cho những người cần chúng. Bố thí thực sự là cách để xóa bỏ phiền não: ở những giây phút ấy chúng ta nghĩ về người khác, chúng ta không có suy nghĩ vị kỷ. Khi có sự đại lượng, sẽ không có tham, sân hay si.

Bố thí với cái hiểu đúng rằng bố thí là kusala thì có nhiều thiện pháp hơn là bố thí mà không có hiểu biết như vậy. Những người bố thí với hiểu biết rằng thiện pháp ấy là một cách làm giảm bớt tính vị kỷ, sẽ có thêm động lực để tiếp tục phát triển thiện pháp. Chúng ta có thể cho rằng suy xét về sự tích lũy thiện pháp cho bản thân mình là một thái độ vị kỷ. Tuy nhiên đó không phải là thái độ vị kỷ. Khi chúng tahiểu biết đúng về cách phát triển thiện pháp, nó sẽ tạo duyên cho tâm thiện sinh khởi thường xuyên hơn và điều này mang lại ích lợi cho tất cả mọi người. Khi tham, sân, si bị tiêu diệt cũng mang lại lợi ích cho những người khác. Khi sống với những người không có tính vị kỷ và không hay giận dữ sẽ dễ chịu hơn là với những người ích kỷ hoặc cáu kỉnh.

Có nhiều mức độ paññå. Khi paññå được phát triển cao hơn, chúng ta hiểu rằng nó không phải là “ta” đang làm việc thiện, mà chỉ là những citta được tạo duyên bởi những tích lũy thiện pháp trong quá khứ. Vì vậy không có lý do để tự hào hay ngã mạn. Bằng sự phát triển paññå, một hiện tượng danh và không phải là “ta”, sẽ có thêm thện pháp được tích lũy.

Trẻ em ở Thái Lan thường được dạy dỗ để cúng dường đặt bát cho chư tăngvì vậy chúng tích lũy thiện pháp. Người Thái gọi việc làm việc thiện là “tham bun”. Khi trẻ em học làm việc thiện từ tuổi còn rất nhỏ thì đó là nhân duyên giúp chúng tiếp tục phát triển lòng đại lượng khi chúng lớn lên.

Khi ai đó cúng dường vật thực cho chư tăng, trước hết người cúng dường (thí chủ) sẽ đươc hưởng lợi từ hành động thiện đó; các nhà sư đã cho người ấy cơ hội để phát triển thiện pháp. Các nhà sư không cần phải cảm ơn thí chủ về món cúng dường đó; họ nói những lời chúc phúc để bày tỏ rằng họ hoan hỷ trong việc làm thiện của thí chủ. Ban đầu chúng ta có thể thấy lạ rằng các sư không cảm ơn mọi người, nhưng khi hiểu rõ hơn về cách thiện pháp được phát triển, chúng ta sẽ nhìn nhận các nét văn hóa này dưới một ánh sáng khác.

Ngay cả khi chúng ta không cho đi cái gì đó, vẫn có cơ hội để phát triển thiện pháp bằng cách tán thưởng việc làm thiện của những người khác: ở thời điểm đó không có lobha, dosa hay moha. Tán thưởng việc thiện của người khác là một nghiệp thiện cũng bao gồm trong bố thí, dana. Khi mọi người tán thưởng việc làm tốt của một người khác, điều ấy mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Nó mang lại sự chung sống hòa hợp trong xã hội.

Phương thức thứ ba của nghiệp thiện thuộc bố thí là khi cho người khác, dù họ ở trên thế giới này hay cõi khác, cơ hội để tán thưởng những việc làm thiện của chúng ta để nhờ đó họ cũng có thiện tâm. Bằng cách thực hiện thiện pháp, chúng ta cũng có thể giúp người khác thực hiện thiện pháp. Thường chúng ta xúc động và hứng khởi khi thấy người khác chăm sóc cha mẹ già, hay thấy mọi người nghiên cứu và giảng Giáo pháp. Chúng ta cần đi theo gương Đức Phật. Chúng ta nên luôn suy nghĩ cách nào có thể giúp người khác phát triển thiện pháp. Cách thực hiện nghiệp thiện này là cách tốt để tiêu diệt phiền não của chúng ta. Có những cơ hội để phát triển thiện pháp bất cứ lúc nào. Khi chúng ta phát triển trí tuệ hơn, chúng ta sẽ không bỏ lỡ cơ hội cho thiện pháp, bởi vì kiếp người rất ngắn ngủi.

Có ba phương thức thực hiện nghiệp thiện thuộc về giới hay sila. Phương thức thứ nhất là trì giới. Người cư sĩ tại gianăm giới phải giữ. Đó là

Không sát sinh

Không trộm cắp

Không tà dâm

Không nói dối

Không uống rượu và dùng các chất say

Có thể rằng, chúng ta giữ những giới này chỉ vì chúng ta phải tuân theo các quy tắc mà không nghĩ đến lý do vì sao chúng ta cần giữ giới. Giữ giới là nghiệp thiện, nhưng mức độ của thiện pháp sẽ không được cao nếu không có cái hiểu đúng. Chúng ta giữ giới với trí tuệ khi ta hiểu rằng ta đang thanh lọc mình khỏi những bất thiện pháp khi giữ giới.

Việc giết một chúng sinhnghiệp bất thiện. Chúng ta có thể băn khoăn liệu đôi khi có cần thiết nên giết hay không. Chúng ta có nên giết khi gặp chiến tranh hay giết sâu bọ để bảo vệ mùa màng, chúng ta có nên giết muỗi để bảo vệ sức khỏe của mình?.Đức Phật biết rằng chừng nào mọi người vẫn sống trên thế giới này, họ vẫn có nhiều lý do để phạm giới. Ngài biết rằng rất khó để giữ tất cả các giới và rằng chúng ta không thể học giữ được tất cả các giới chỉ trong một ngày. Tuy nhiên, thông qua hiểu biết đúng, chúng ta có thể dần dần học giữ giới. Giới không phải nói là “bạn không được giết”. Cách nói như vậy có ý như sự ra lệnh, mà chúng được diễn đạt như sau: “Con xin cố ý tránh xa sự sát sinh”.

Đức Phật chỉ ra rằng điều gì là bất thiện và điều gì là thiện để cho mọi người có thể tìm được con đường tới sự an bình thực sự. Chính trí tuệ hay chánh kiến có thể giúp mọi người giữ giới. Nếu không có paññå, họ sẽ phạm giới dễ dàng khi sự quyến rũ trở nên mạnh mẽ hay ở trong tình huống khó giữ giới. Khi paññå được phát triển nhiều hơn, nó tạo duyên cho việc giữ giới thường xuyên hơn. Chúng ta có thể thấy từ kinh nghiệm rằng, phạm giới thường do tham, sân và si. Khi hiểu rằng việc giữ giới là cách để loại bỏ phiền não, chúng ta sẽ tránh được ngay cả việc giết muỗi và kiến. Chúng ta luôn tích lũy sự sân hận khi có ý định giết, dù chỉ là một con côn trùng rất nhỏ. Chúng ta cần phải thấy rằng chúng ta tích lũy bất thiện pháp khi giết chúng sinh khác, cho dù đó là con người hay con vật. Tuy nhiên chúng ta không thể bắt những người khác cũng giữ giới không sát sinh.

Cố ý tránh xa sự sát sinh cũng là một dạng bố thí, đó là món quà cuộc sống, loại bố thí cao nhất mà chúng ta có thể làm. Sự phân loại thiện pháp giữa bố thítrì giới không cứng nhắc. Các thực tại được sắp xếp theo các khía cạnh khác nhau của nó. Đối với việc dùng các chất gây nghiện, mọi người cần phải tự tìm hiểu xem có bao nhiêu nghiệp bất thiện đã được tích lũy theo cách này. Nếu như chúng ta, dù chỉ chút ít, có sự dính mắc với những thứ ấy thì chúng ta đang tích lũy bất thiện pháp, và bằng cách ấy nó sẽ có hại trong tương lai. Khi sự dính mắc đủ mạnh, nó sẽ xuất hiện dưới dạng thân nghiệpkhẩu nghiệp. Ngay cả khi chỉ dùng một chút rượu, điều ấy vẫn có thể khiến chúng ta có thêm tham lam, giận dữvô minh. Nó có thể tạo ra hiệu ứng khiến mọi người thường không nhận ra những gì họ đang làm và không thể hay biết về các thực tại của những giây phút hiện tại. Paññå sẽ khiến chúng ta uống ít hơn, dần dần dẫn đến việc ngừng uống hoàn toàn. Chúng ta không phải ép mình không uống, chúng ta chỉ mất đi thú vị đối với việc uống rượu vì ta thấy sự bất lợi của nó. Bằng cách ấy, việc không uống rượu sẽ trở thành bản chất tự nhiên của chúng ta. Người đã phát triển paññå tới mức đạt đến giai đoạn thứ nhất của sự giác ngộ, vị thánh Tu đà hoàn (sotåpaññå), sẽ không bao giờ phạm năm giới nữa, đối với vị ấy, việc giữ giới đã trở thành tự nhiên.

Phương thức thứ hai của nghiệp thiện thuộc về giới là tỏ sự kính trọng tới những người đáng được kính trọng. Không cần thiết phải thể hiện sự kính trọng theo một văn hóa cụ thể nào; sự tôn kínhchúng ta cảm nhận đối với một người khác là quan trọng hơn. Điều này giúp chúng tathái độ khiêm nhường đối với người đáng được kính trọng. Cách mọi người thể hiện sự tôn trọng tùy thuộc vào tập tục của đất nước mà họ sinh sống hay thói quen mà họ đã tích lũy. Ở Thái lan, mọi người thể hiện sự kính trọng tới các vị tì kheo, người thầy và người già theo cách khác với người phương tây. Ở một số nước, sự tôn trọngmọi người cảm thấy đối với người khác có thể chỉ thể hiện qua thái độ rất lịch sự khi nói chuyện với những người ấy.

Sự lịch thiệp tới từ trong tâm là nghiệp thiên; tại giây phút đó không có lobha, dosa và moha. Việc thể hiện sự kính trọng tới các vị sư, các vị thầy và người già là nghiệp thiện. Ở Thái Lan, mọi người thể hiện sự kính trọng của mình đối với tổ tiên; họ thể hiện lòng biết ơn đối với những phẩm chất tốt đẹp của tổ tiên. Đó là nghiệp thiện. Tổ tiên của họ có thể thấy được mọi người đang thể hiện sự kính trọng tới họ hay không không quan trọng. Chúng ta không thể biết tổ tiên của mình đã tái sinh ở cõi nào, ở cõi người hay cõi khác, nơi mà họ có thể nhìn thấy mọi người đang bày tỏ sự tôn kính tới họ. Nghĩ về tổ tiên với lòng biết ơnthiện pháp.

Chúng ta nên luôn tìm hiểu xem liệu có tâm bất thiện hay tâm thiện đang thúc đẩy các việc làm của chúng ta, để hiểu được ý nghĩa của việc làm ấy. Khi đó chúng ta sẽ hiểu và tán thưởng nhiều tập tục của gười Thái và sẽ không dễ dàng phán xét sai lầm hay cho rằng đó là mê tín dị đoan. Chúng ta cũng cần hiểu hơn việc đảnh lễ tượng Phật theo cách tương tự như vậy. Đó không phải là tôn kính một hình ảnh nào đó; thực chất, đó là một nghiệp thiện khi chúng ta nghĩ về những phẩm chất tuyệt vời của Đức Phật: Trí tuệ, sự thanh cao và lòng từ bi của Ngài. Chúng ta không đảnh lễ Đức Phật ở trên trời, bởi vì Đức Phật không ở trên trời hay ở bất kỳ cõi nào; Ngài đã tịch diệt hoàn toàn. Biết ơn Đức Phậtđi theo con đường Ngài đã tìm rathiện pháp. Chúng ta sẽ bày tỏ sự tôn kính đối với Đức Phật như thế nào còn tùy thuộc vào xu hướngchúng ta đã tích lũy.

Phương thức thứ ba thực hiện nghiệp thiện thuộc về giới là giúp đỡ những người khác thông qua lời nóiviệc làm. Việc giúp đỡ người khác sẽ ở mức độ thiện pháp cao hơn nếu có hiểu biết rằng giúp đỡ là thiện nghiệp, và rằng đó là cách để giảm sự vị kỷ và các phiền não khác. Khi ấy ta sẽ được khuyến khích để làm thêm nhiều việc thiện; ta sẽ thiết lập giới hơn nữa. Như thế sẽ có thêm thiện pháp nhờ việc giữ giới với hiểu biết (hay panna).

Thực hiện các nghĩa vụ của mình thì không phải luôn luôn là nghiệp thiện (kusala kamma): mọi người có thể thực hiện trách nhiệm của mình bởi vì họ đã được trả tiền cho công việc ấy. Chẳng hạn, một người thầy giáo dạy học trò của mình và bác sĩ thì chăm sóc bệnh nhân bởi vì đó là công việc của họ. Tuy nhiên, họ có thể phát triển thiện pháp nếu họ thực hiện trách nhiệm của mình với từ tâm.

Paññå tạo duyên để chúng ta thực hiện các nghiệp thiện, không kể nghĩa vụ của chúng ta là gì. Thiện pháp có thể được phát triển bất cứ lúc nào khi chúng ta ở cùng người khác, khi chúng ta nói hay lắng nghe họ.

Giúp những người khác chỉ với lời nóiviệc làm tốt đẹp thì chưa đủ. Khi đúng lúc, chúng ta cần giúp người khác theo cách hiệu quả và sâu sắc hơn, đó là giúp họ hiểu họ là ai, tại sao họ lại ở trên thế giới này và mục đích cuộc sống của họ trên thế giới này là gì. Cách giúp đỡ như vậy nằm trong bhavana hay là sự phát triển tâm trí.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28163)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6664)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8774)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9280)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15360)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8234)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8662)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16683)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26921)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18624)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15607)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22491)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19410)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18287)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16157)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25576)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12851)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37835)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20064)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10697)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10013)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10537)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10358)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11016)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15158)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10828)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19648)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11680)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10756)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11216)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10092)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10547)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11531)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10869)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11382)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12130)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11029)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12988)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17740)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15176)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15640)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10969)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12084)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11022)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21786)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12072)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9161)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20148)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17226)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10063)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant