Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4 Các Việc Thiện

15 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4218)
Chương 4 Các Việc Thiện

ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY  
Tác giả: Nina Van Gorkom

Chương 4 
Các việc thiện


Đức Phật giúp mọi người có cái hiểu đúng về thiện phápbất thiện pháp; Ngài đã giúp họ bằng cách dạy họ Giáo pháp; Giáo pháp vượt lên trên tất cả các món quà khác, bởi vì món quà ích lợi nhất mà ta có thể tặng người khác là giúp họ phát triển hiểu biết đúng để họ có được cuộc sống thiện hơn. Bằng cách ấy họ sẽ có thêm hạnh phúc.

Trong Tăng chi bộ kinh (Quyển II, Chương IV, Số 2) chúng ta đọc rằng không dễ gì trả ơn cha mẹ vì những gì họ đã làm cho chúng ta:

Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai ? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt một trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, đưa chúng vào cuộc đời này.

Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, an trú, hướng dẫn các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giớ ; đối với mẹ cha tham lam, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố th ; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.

Trong bài kinh này, Đức Phật đã chỉ ra tầm quan trọng của việc giúp người khác có hiểu biết đúng về sự phát triển thiện pháp; Ngài đã giải thích rằng đó là cách để trả ơn cha mẹ. Việc giúp cha mẹlòng tin được nói đến trước. Tuy nhiên từ “lòng tin” không được sử dụng trong nghĩa “tin ở một người”. Đức Phật không muốn mọi người làm việc thiệnvâng lời Ngài hay tuân theo một luật lệ nhất định nào đó. Tin có nghĩa là tin vào thiện pháp, tin rằng việc tích lũy thiện pháplợi lạc. Vì thế, mỗi khi có thiện pháp thì sẽ có tín tâm. Sau tín tâm, bài kinh nói trên đề cập đến “giới” và sau đó là “bố thí”. Trí tuệ hay hiểu biết đúng được nói đến sau cùng.

Khi nghiệp thiện được giải thích theo các cách khác nhau trong bài kinh đó, bố thí (hay danna) luôn được nhắc đến trước tiên, trì giới (hay sila) được đề cập tiếp theo và sau đó là “bhavana” hay sự phát triển tâm trí. Có nhiều cách để phát triển thiện pháphiểu biết về những cách tạo duyên cho việc thực hiện chúng. Paññå, hay trí tuệ, là yếu tố vượt lên trên tất cả, tạo duyên cho việc loại trừ bất thiện pháp và phát triển thiện pháp. Có thể có dana và sila mà không có paññå, nhưng khi có paññå, danna và sila sẽ ở mức độ thiện cao hơn. Sẽ không thể có sự phát triển tâm trí mà không có paññå. Paññå là yếu tố không thể thiếu cho sự phát triển tâm trí, và mặt khác paññå được phát triển thông qua bhavana.

Paññå, trí tuệ hiểu mọi thứ như chúng là, sẽ giúp mọi người có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Có nhiều mức độ của paññå. Khi paññå được phát triển, phiền não sẽ được loại bỏmọi người sẽ tìm thấy sự bình an trong tâm. Rất lợi lạc khi phát triển hiểu biết đúng về cái gì là bất thiện và cái gì là thiện, cũng như giúp những người khác phát triển hiểu biết này.

Tất cả những tâm bất thiện đều được tạo bởi tâm si hay moha. Có những loại tâm bất thiện khác nhau. Một số tâm bất thiện chỉ bắt rễ từ tâm moha. Cũng có cả tâm bất thiện bắt rễ từ tâm si và tâm tham. Tâm tham là sự dính mắc, vị kỷ hay tham lam. Hơn nữa có cả tâm bất thiện bắt rễ từ tâm si và tâm sân. Tâm sân là ghét bỏ, ác ý hay sự giận dữ. Các việc làm bất thiện được thúc đẩy bởi các tâm bất thiện.

Khi có tâm thiện thì không có tâm tham, sân hay si sinh khởi cùng với tâm. Các việc làm thiện được bắt nguồn bởi các tâm thiện. Khi chúng ta bố thí, trì giới hay phát triển tâm trí thì không có tham, sân hay si sinh khởi cùng tâm thiện, tâm tạo nên các việc làm thiện. Thật cần thiết để biết thêm về bố thí, trì giới hay phát triển tâm trí để có một cuộc sống thiện hơn.

Một cách phát triển thiện phápbố thí – danna. Danna là cho những thứ cần thiết cho người khác, chẳng hạn, cho thức ăn, quần áo hay tiền bạc cho những người cần chúng. Bố thí thực sự là cách để xóa bỏ phiền não: ở những giây phút ấy chúng ta nghĩ về người khác, chúng ta không có suy nghĩ vị kỷ. Khi có sự đại lượng, sẽ không có tham, sân hay si.

Bố thí với cái hiểu đúng rằng bố thí là kusala thì có nhiều thiện pháp hơn là bố thí mà không có hiểu biết như vậy. Những người bố thí với hiểu biết rằng thiện pháp ấy là một cách làm giảm bớt tính vị kỷ, sẽ có thêm động lực để tiếp tục phát triển thiện pháp. Chúng ta có thể cho rằng suy xét về sự tích lũy thiện pháp cho bản thân mình là một thái độ vị kỷ. Tuy nhiên đó không phải là thái độ vị kỷ. Khi chúng tahiểu biết đúng về cách phát triển thiện pháp, nó sẽ tạo duyên cho tâm thiện sinh khởi thường xuyên hơn và điều này mang lại ích lợi cho tất cả mọi người. Khi tham, sân, si bị tiêu diệt cũng mang lại lợi ích cho những người khác. Khi sống với những người không có tính vị kỷ và không hay giận dữ sẽ dễ chịu hơn là với những người ích kỷ hoặc cáu kỉnh.

Có nhiều mức độ paññå. Khi paññå được phát triển cao hơn, chúng ta hiểu rằng nó không phải là “ta” đang làm việc thiện, mà chỉ là những citta được tạo duyên bởi những tích lũy thiện pháp trong quá khứ. Vì vậy không có lý do để tự hào hay ngã mạn. Bằng sự phát triển paññå, một hiện tượng danh và không phải là “ta”, sẽ có thêm thện pháp được tích lũy.

Trẻ em ở Thái Lan thường được dạy dỗ để cúng dường đặt bát cho chư tăngvì vậy chúng tích lũy thiện pháp. Người Thái gọi việc làm việc thiện là “tham bun”. Khi trẻ em học làm việc thiện từ tuổi còn rất nhỏ thì đó là nhân duyên giúp chúng tiếp tục phát triển lòng đại lượng khi chúng lớn lên.

Khi ai đó cúng dường vật thực cho chư tăng, trước hết người cúng dường (thí chủ) sẽ đươc hưởng lợi từ hành động thiện đó; các nhà sư đã cho người ấy cơ hội để phát triển thiện pháp. Các nhà sư không cần phải cảm ơn thí chủ về món cúng dường đó; họ nói những lời chúc phúc để bày tỏ rằng họ hoan hỷ trong việc làm thiện của thí chủ. Ban đầu chúng ta có thể thấy lạ rằng các sư không cảm ơn mọi người, nhưng khi hiểu rõ hơn về cách thiện pháp được phát triển, chúng ta sẽ nhìn nhận các nét văn hóa này dưới một ánh sáng khác.

Ngay cả khi chúng ta không cho đi cái gì đó, vẫn có cơ hội để phát triển thiện pháp bằng cách tán thưởng việc làm thiện của những người khác: ở thời điểm đó không có lobha, dosa hay moha. Tán thưởng việc thiện của người khác là một nghiệp thiện cũng bao gồm trong bố thí, dana. Khi mọi người tán thưởng việc làm tốt của một người khác, điều ấy mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Nó mang lại sự chung sống hòa hợp trong xã hội.

Phương thức thứ ba của nghiệp thiện thuộc bố thí là khi cho người khác, dù họ ở trên thế giới này hay cõi khác, cơ hội để tán thưởng những việc làm thiện của chúng ta để nhờ đó họ cũng có thiện tâm. Bằng cách thực hiện thiện pháp, chúng ta cũng có thể giúp người khác thực hiện thiện pháp. Thường chúng ta xúc động và hứng khởi khi thấy người khác chăm sóc cha mẹ già, hay thấy mọi người nghiên cứu và giảng Giáo pháp. Chúng ta cần đi theo gương Đức Phật. Chúng ta nên luôn suy nghĩ cách nào có thể giúp người khác phát triển thiện pháp. Cách thực hiện nghiệp thiện này là cách tốt để tiêu diệt phiền não của chúng ta. Có những cơ hội để phát triển thiện pháp bất cứ lúc nào. Khi chúng ta phát triển trí tuệ hơn, chúng ta sẽ không bỏ lỡ cơ hội cho thiện pháp, bởi vì kiếp người rất ngắn ngủi.

Có ba phương thức thực hiện nghiệp thiện thuộc về giới hay sila. Phương thức thứ nhất là trì giới. Người cư sĩ tại gianăm giới phải giữ. Đó là

Không sát sinh

Không trộm cắp

Không tà dâm

Không nói dối

Không uống rượu và dùng các chất say

Có thể rằng, chúng ta giữ những giới này chỉ vì chúng ta phải tuân theo các quy tắc mà không nghĩ đến lý do vì sao chúng ta cần giữ giới. Giữ giới là nghiệp thiện, nhưng mức độ của thiện pháp sẽ không được cao nếu không có cái hiểu đúng. Chúng ta giữ giới với trí tuệ khi ta hiểu rằng ta đang thanh lọc mình khỏi những bất thiện pháp khi giữ giới.

Việc giết một chúng sinhnghiệp bất thiện. Chúng ta có thể băn khoăn liệu đôi khi có cần thiết nên giết hay không. Chúng ta có nên giết khi gặp chiến tranh hay giết sâu bọ để bảo vệ mùa màng, chúng ta có nên giết muỗi để bảo vệ sức khỏe của mình?.Đức Phật biết rằng chừng nào mọi người vẫn sống trên thế giới này, họ vẫn có nhiều lý do để phạm giới. Ngài biết rằng rất khó để giữ tất cả các giới và rằng chúng ta không thể học giữ được tất cả các giới chỉ trong một ngày. Tuy nhiên, thông qua hiểu biết đúng, chúng ta có thể dần dần học giữ giới. Giới không phải nói là “bạn không được giết”. Cách nói như vậy có ý như sự ra lệnh, mà chúng được diễn đạt như sau: “Con xin cố ý tránh xa sự sát sinh”.

Đức Phật chỉ ra rằng điều gì là bất thiện và điều gì là thiện để cho mọi người có thể tìm được con đường tới sự an bình thực sự. Chính trí tuệ hay chánh kiến có thể giúp mọi người giữ giới. Nếu không có paññå, họ sẽ phạm giới dễ dàng khi sự quyến rũ trở nên mạnh mẽ hay ở trong tình huống khó giữ giới. Khi paññå được phát triển nhiều hơn, nó tạo duyên cho việc giữ giới thường xuyên hơn. Chúng ta có thể thấy từ kinh nghiệm rằng, phạm giới thường do tham, sân và si. Khi hiểu rằng việc giữ giới là cách để loại bỏ phiền não, chúng ta sẽ tránh được ngay cả việc giết muỗi và kiến. Chúng ta luôn tích lũy sự sân hận khi có ý định giết, dù chỉ là một con côn trùng rất nhỏ. Chúng ta cần phải thấy rằng chúng ta tích lũy bất thiện pháp khi giết chúng sinh khác, cho dù đó là con người hay con vật. Tuy nhiên chúng ta không thể bắt những người khác cũng giữ giới không sát sinh.

Cố ý tránh xa sự sát sinh cũng là một dạng bố thí, đó là món quà cuộc sống, loại bố thí cao nhất mà chúng ta có thể làm. Sự phân loại thiện pháp giữa bố thítrì giới không cứng nhắc. Các thực tại được sắp xếp theo các khía cạnh khác nhau của nó. Đối với việc dùng các chất gây nghiện, mọi người cần phải tự tìm hiểu xem có bao nhiêu nghiệp bất thiện đã được tích lũy theo cách này. Nếu như chúng ta, dù chỉ chút ít, có sự dính mắc với những thứ ấy thì chúng ta đang tích lũy bất thiện pháp, và bằng cách ấy nó sẽ có hại trong tương lai. Khi sự dính mắc đủ mạnh, nó sẽ xuất hiện dưới dạng thân nghiệpkhẩu nghiệp. Ngay cả khi chỉ dùng một chút rượu, điều ấy vẫn có thể khiến chúng ta có thêm tham lam, giận dữvô minh. Nó có thể tạo ra hiệu ứng khiến mọi người thường không nhận ra những gì họ đang làm và không thể hay biết về các thực tại của những giây phút hiện tại. Paññå sẽ khiến chúng ta uống ít hơn, dần dần dẫn đến việc ngừng uống hoàn toàn. Chúng ta không phải ép mình không uống, chúng ta chỉ mất đi thú vị đối với việc uống rượu vì ta thấy sự bất lợi của nó. Bằng cách ấy, việc không uống rượu sẽ trở thành bản chất tự nhiên của chúng ta. Người đã phát triển paññå tới mức đạt đến giai đoạn thứ nhất của sự giác ngộ, vị thánh Tu đà hoàn (sotåpaññå), sẽ không bao giờ phạm năm giới nữa, đối với vị ấy, việc giữ giới đã trở thành tự nhiên.

Phương thức thứ hai của nghiệp thiện thuộc về giới là tỏ sự kính trọng tới những người đáng được kính trọng. Không cần thiết phải thể hiện sự kính trọng theo một văn hóa cụ thể nào; sự tôn kínhchúng ta cảm nhận đối với một người khác là quan trọng hơn. Điều này giúp chúng tathái độ khiêm nhường đối với người đáng được kính trọng. Cách mọi người thể hiện sự tôn trọng tùy thuộc vào tập tục của đất nước mà họ sinh sống hay thói quen mà họ đã tích lũy. Ở Thái lan, mọi người thể hiện sự kính trọng tới các vị tì kheo, người thầy và người già theo cách khác với người phương tây. Ở một số nước, sự tôn trọngmọi người cảm thấy đối với người khác có thể chỉ thể hiện qua thái độ rất lịch sự khi nói chuyện với những người ấy.

Sự lịch thiệp tới từ trong tâm là nghiệp thiên; tại giây phút đó không có lobha, dosa và moha. Việc thể hiện sự kính trọng tới các vị sư, các vị thầy và người già là nghiệp thiện. Ở Thái Lan, mọi người thể hiện sự kính trọng của mình đối với tổ tiên; họ thể hiện lòng biết ơn đối với những phẩm chất tốt đẹp của tổ tiên. Đó là nghiệp thiện. Tổ tiên của họ có thể thấy được mọi người đang thể hiện sự kính trọng tới họ hay không không quan trọng. Chúng ta không thể biết tổ tiên của mình đã tái sinh ở cõi nào, ở cõi người hay cõi khác, nơi mà họ có thể nhìn thấy mọi người đang bày tỏ sự tôn kính tới họ. Nghĩ về tổ tiên với lòng biết ơnthiện pháp.

Chúng ta nên luôn tìm hiểu xem liệu có tâm bất thiện hay tâm thiện đang thúc đẩy các việc làm của chúng ta, để hiểu được ý nghĩa của việc làm ấy. Khi đó chúng ta sẽ hiểu và tán thưởng nhiều tập tục của gười Thái và sẽ không dễ dàng phán xét sai lầm hay cho rằng đó là mê tín dị đoan. Chúng ta cũng cần hiểu hơn việc đảnh lễ tượng Phật theo cách tương tự như vậy. Đó không phải là tôn kính một hình ảnh nào đó; thực chất, đó là một nghiệp thiện khi chúng ta nghĩ về những phẩm chất tuyệt vời của Đức Phật: Trí tuệ, sự thanh cao và lòng từ bi của Ngài. Chúng ta không đảnh lễ Đức Phật ở trên trời, bởi vì Đức Phật không ở trên trời hay ở bất kỳ cõi nào; Ngài đã tịch diệt hoàn toàn. Biết ơn Đức Phậtđi theo con đường Ngài đã tìm rathiện pháp. Chúng ta sẽ bày tỏ sự tôn kính đối với Đức Phật như thế nào còn tùy thuộc vào xu hướngchúng ta đã tích lũy.

Phương thức thứ ba thực hiện nghiệp thiện thuộc về giới là giúp đỡ những người khác thông qua lời nóiviệc làm. Việc giúp đỡ người khác sẽ ở mức độ thiện pháp cao hơn nếu có hiểu biết rằng giúp đỡ là thiện nghiệp, và rằng đó là cách để giảm sự vị kỷ và các phiền não khác. Khi ấy ta sẽ được khuyến khích để làm thêm nhiều việc thiện; ta sẽ thiết lập giới hơn nữa. Như thế sẽ có thêm thiện pháp nhờ việc giữ giới với hiểu biết (hay panna).

Thực hiện các nghĩa vụ của mình thì không phải luôn luôn là nghiệp thiện (kusala kamma): mọi người có thể thực hiện trách nhiệm của mình bởi vì họ đã được trả tiền cho công việc ấy. Chẳng hạn, một người thầy giáo dạy học trò của mình và bác sĩ thì chăm sóc bệnh nhân bởi vì đó là công việc của họ. Tuy nhiên, họ có thể phát triển thiện pháp nếu họ thực hiện trách nhiệm của mình với từ tâm.

Paññå tạo duyên để chúng ta thực hiện các nghiệp thiện, không kể nghĩa vụ của chúng ta là gì. Thiện pháp có thể được phát triển bất cứ lúc nào khi chúng ta ở cùng người khác, khi chúng ta nói hay lắng nghe họ.

Giúp những người khác chỉ với lời nóiviệc làm tốt đẹp thì chưa đủ. Khi đúng lúc, chúng ta cần giúp người khác theo cách hiệu quả và sâu sắc hơn, đó là giúp họ hiểu họ là ai, tại sao họ lại ở trên thế giới này và mục đích cuộc sống của họ trên thế giới này là gì. Cách giúp đỡ như vậy nằm trong bhavana hay là sự phát triển tâm trí.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10153)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11213)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13546)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13697)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22060)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21810)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27287)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17711)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11695)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12288)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25175)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23192)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28489)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22679)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25611)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22211)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13949)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13385)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22348)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26244)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18399)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18906)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34410)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27308)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28321)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21297)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14857)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19172)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10586)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18530)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15622)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13138)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13399)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 13978)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11750)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11598)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11317)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11830)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19886)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12355)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13917)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13240)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31871)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13408)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12719)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13296)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11859)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21804)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11060)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12852)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant