Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 12 Vipassanå

15 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4522)
Chương 12 Vipassanå

ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY  
Tác giả: Nina Van Gorkom

Chương 12 
Vipassanå


Câu hỏi:
Trong phát triển vipassanå, hay minh sát tuệ, chúng ta học để thấy mọi thứ như chúng là. Thấy mọi thứ như chúng là có nghĩa là: thấy nama và rúpa như chúng là. Vì vậy, chúng ta cần phải phân biệt giữa nama và rúpa một cách rõ ràng hơn. Rúpa là cái không kinh nghiệm gì cả. Liệu chúng ta có thể nói rằng nama là cái kinh nghiệm còn rúpa là cái được kinh nghiệm không?

Nina: Bạn nói rằng rúpa là cái được kinh nghiệm. Câu nói của bạn hàm ý rằng nama không thể được kinh nghiệm. Nama không chỉ kinh nghiệm rúpa mà còn kinh nghiệm cả nama nữa. Bạn có nhận thấy có lúc có cảm thọ lạc, có lúc có tâm sân và có lúc có suy nghĩ hay không? Đó không phải là một cái “ngã” nhận thấy điều đó, nhưng là nama. Tại những khoảnh khắc đó, nama hay biết nama.

Câu hỏi: Trong vipassanå, chúng ta phát triển chánh niệm. Chánh niệm luôn luôn hay biết cái gì đó. Tôi không chắc là tôi hiểu chánh niệm là gì.

Nina: Từ “sati” trong tiếng Pali được dịch sang tiếng Anh là “chánh niệm” hay “hay biết”. Những từ này có thể gây nên nhần lẫn. Khi chúng ta nói theo ngôn ngữ chế định rằng, chúng ta hay biết cái gì đó có nghĩa là chúng ta biết hay kinh nghiệm cái gì đó, nhưng điều đó không có nghĩa là có chánh niệm (sati). Tuy nhiên, chúng ta sử dụng từ nào để đặt tên cho thực tại là sati thì không quan trọng, mà điều quan trọng là phải hiểu đặc tính của nó.

Sati là một tâm sở “tịnh hảo” (sobhana cetasika), nó chỉ sinh khởi cùng với tâm tịnh hảo (sobhana citta). Mỗi tâm thiện (kusala citta) đều có sati đi kèm để không quên, cần mẫn lưu tâm cái gì là thiện, ngăn ngừa ta làm việc bất thiện. Có nhiều mức độ sati khác nhau. Có sati cùng với bố thí (dana). Khi ta bố thí, sati không quên việc thiệnbố thí. Có sati cùng với síla, hay trì giới. Khi chúng ta giữ giới không sát sinh, có sati đang cần mẫn lưu tâm, ngăn cản chúng ta khỏi sát sinh. Có sati trong samatha, tức là sự phát triển an tịnh. Chẳng hạn, khi chúng ta niệm ân Đức Phật, có khoảnh khắc an tịnh; đó chính là sati hay biết đối tượng tạo duyên cho sự an tịnh. Khi chúng ta phát triển vipassanå, có sati đi kèm với tâm thiện (kusala citta), và nó hay biết về bất cứ nama hay rúpa nào đang sinh khởi bây giờ, tại giây phút này, thông qua một trong sáu căn. Thông qua chánh niệm về nama và rúpa, chúng ta sẽ học cách thấy mọi thứ như chúng là. Vì vậy, bất kể chúng ta đang bố thí, trì giới, phát triển samatha hay vipassanå, luôn có sati cùng với tâm thiện (kusala citta), nhưng phẩm chất của sati lại khác nhau tại những giây phút khác nhau ấy.

Câu hỏi: Làm thế nào tôi có thể biết khi nào có sati của vipassanå?

Nina: Để có thể biết khi nào có sati của vipassanå, chúng ta cần phải hiểu đối tượng của sati là gì: là một thực tại, một nama hay rúpa sinh khởi hiện giờ. Nama và rúpa xuất hiện một lần tại một thời điểm thông qua sáu căn. Chúng là những thực tại có thể được kinh nghiệm trực tiếp. Chúng ta vô minh về các thực tạichúng ta không biết sự khác biệt giữa các thực tại, các khái niệm hay ý niệm. Chúng ta có thể nghĩ về các khái niệm và ý niệm, nhưng đó không phải là những thực tại có thể được kinh nghiệm trực tiếp thông qua một trong sáu căn. Chúng ta cho rằng có mọi người và đồ vật ở đó, một cách trường tồn, và chúng ta không thấy rằng, cái mà chúng ta coi là trường tồn hoặc là ngã, trên thực tế, chỉ là các hiện tượng khác nhau, chúng đều vô thườngvô ngã.

Chúng ta dính mắc vào khái niệm về một người hay thứ gì đó tồn tại, nhưng trên thực tế, đó là cái gì? Cái gì có thể được kinh nghiệm trực tiếp qua một trong sáu căn? Không phải là một người hay một thứ nào đó tồn tại, chỉ là các yếu tố khác nhau hiện diện một lần tại một thời điểm thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thông qua sáu căn này.

Chẳng hạn, khi chúng ta cầm lát bánh mỳ, thường là không có sự phát triển minh sát, mà thay vào đó, chúng ta bám víu vào khái niệm “cái bánh mì” cái được cho là kéo dài, ít nhất trong một khoản thời gian nào đó. Bánh mì là một khái niệm hay ý niệm, nó không phải là một thực tại có thể được kinh nghiệm trực tiếp. Những thực tại nào có thể được kinh nghiệm trực tiếp trong trường hợp ấy?. Thông qua mắt – tức là thị giác thì có đối tượng thị giác có thể được kinh nghiệm. Chúng ta không nhìn thấy lát bánh mì, nhưng chúng ta có thể nghĩ về bánh mì vì có sự ghi nhớ của các kinh nghiệm quá khứ. Thấy đối tượng thị giác tạo duyên cho sự suy nghĩ về khái niệm bánh mì. Đối tượng thị giác chỉ xuất hiện thông qua mắt. Cái thấy thấy đối tượng thị giác. Đối tượng thị giác và cái thấy là những thực tại có thể được biết bởi paññå, hay trí tuệ. Khi chúng ta chạm vào lát bánh mì, đối tượng xúc chạm có thể được kinh nghiệm thông qua thân căn, tức là: cứng, mềm, nóng, lạnh, sự chuyển động, sự căng cứng. Chúng là những thực tại, là rúpa, được hay biết bởi paññå. Nama kinh nghiệm các rúpa này cũng là thực và nó có thể được biết bởi paññå. Thông qua mũi, mùi có thể được kinh nghiệm. Rúpa khi đó là mùi và nama kinh nghiệm mùi là cũng là thực tại, đều được biết bởi paññå. Thông qua lưỡi, vị có thể được kinh nghiệm. Rúpa khi đó là vị và nama kinh nghiệm vị là thực tại cũng đều được hay biết. Vì vậy, chúng ta thấy rằng có nhiều loại nama và rúpa khác nhau đều có thể được hay biết tại một thời điểm. Chúng ta vẫn nghĩ rằng “tôi thấy, tôi nghe, tôi kinh nghiệm”, nhưng thông qua phát triển minh sát, chúng ta sẽ học được rằng chỉ có nama và rúpa, không có cái ngã nào cả. Nama là cái thấy làm việc “thấy”, chứ không phải “ta” thấy. Cái thấy sinh khởi bởi nhân duyên rồi diệt ngay tức thì, mặc dù chúng ta không nhận ra nó. Nama là cái nghe làm việc nghe, không phải “ta” nghe. Có nhiều loại nama khác nhau kinh nghiệm các đối tượng khác nhau.

Đối tượng của chánh niệm có thể là một nama hoặc một rúpa tại một thời điểm, không phải là khái niệm hay ý niệm như một người, một cái cốc hay một lát bánh mì. Chúng ta sử dụng các tên gọi trong cuộc sống hàng ngày để chỉ các khái niệm và ý niệm, nhưng chúng ta phải biết sự khác nhau giữa khái niệm và đặc tính của nama và rúpa – cái có thể được kinh nghiệm trực tiếp mà không cần phải đặt tên. Nama và rúpa là những thực tại tuyệt đối (hay pháp chân đế – paramattha dhammas), chúng đều có đặc tính riêng. Chẳng hạn, cái thấy có đặc tính riêng của nó; chúng ta có thể sử dụng các tên gọi khác nhau bằng các ngôn ngữ khác nhau để chỉ cái thấy, nhưng đặc tính của nó thì không thay đổi. Cái thấy thì luôn thấy, dù chúng ta gọi tên nó là gì; đó là một nama kinh nghiệm đối tượng thị giác và nó có thể được biết đến khi nó xuất hiện. Có cái thấy bây giờ không? Cái cứng thì luôn luôn cứng, cho dù chúng ta gọi nó là gì; nó là một rúpa được kinh nghiệm qua thân căn. Có cái cứng bây giờ không? Vì vậy, chúng ta có thể sử dụng các tên gọi khác nhau là một nama hay một rúpa, nhưng đặc tính của chúng thì không thể thay đổi. Khi chúng xuất hiện thông qua một trong sáu căn, chúng có thể được kinh nghiệm trực tiếp. Chúng ta có thể nghĩ về các khái niệm và ý niệm, nhưng đó không phải là các thực tại tuyệt đối. Khi chúng ta nghĩ về chúng, bản thân sự suy nghĩ cũng là một thực tại được sinh khởi, nó là một loại nama; nó sinh khởi bởi nhân duyên.

Sati trong vipassanå là hay biết, không quên, các thực tại tuyệt đối, các nama và rúpa đang xuất hiện. Nó hoàn toàn khác với cái mà chúng ta gọi là “hay biết” theo ngôn ngữ chế định thông thường. Mỗi một tâm đều kinh nghiệm một đối tượng, nó “hay biết” hay ý thức về một đối tượng, nhưng không phải mọi tâm đều kèm theo tâm sở sati. Chẳng hạn, đặc tính cứng có thể được kinh nghiệm bởi nhiều loại tâm khác, nhưng không phải loại tâm nào cũng có sati đi kèm. Khi có sati – cái hay biết đặc tính của cái cứng, chỉ duy nhất đặc tính đó xuất hiện và tại khoảnh khắc đó, không có suy nghĩ về cái gì đó cứng hay một cái tay chạm vào cái gì cứng. Một cái gì cứng hay một cái tay chạm vào cái gì cứng đều là những khái niệm mà chúng ta nghĩ đến, nhưng tại khoảnh khắc đó, không có chánh niệm về đặc tính của cái cứng. Tại khoảnh khắc sati hay biết cái cứng xuất hiện, paññå có thể thẩm sát đặc tính đó để biết nó như nó là: chỉ là một rúpa, không phải là một thứ gì trường tồn, không phải là “ngã”.

Khi mới bắt đầu, chúng ta chưa thể hiểu rõ ràng về nama và rúpa, nhưng thông qua chánh niệm về đặc tính của nama và rúpa xuất hiện một lần tại một thời điểm, paññå có thể dần dần phát triển.

Biết được sự khác biệt giữa khoảnh khắc có sati và khoảnh khắc không có sati là rất quan trọng. Thông thường là thất niệm về thực tại, nhưng đôi khi sati có thể sinh khởi. Chúng ta sẽ học biết sự khác biệt này từ kinh nghiệm. Sau một thời gian dài thất niệm về các thực tại, sati có thể sinh khởi và hay biết một đặc tính của nama và rúpa tại một thời điểm. Không phải một cái ta hay một cái ngã có chánh niệm, đó là sati. Chúng ta không thể làm cho sati sinh khởi bởi vì nó là một loại nama và vô ngã. Nó chỉ có thể sinh khởi khi có nhân duyên cho nó sinh khởi.

Câu hỏi: Chúng ta không thể nào chánh niệm về nama và rúpa cùng một lúc, nhưng tôi muốn biết nama và rúpa có liên quan với nhau như thế nào. Khi có cái nghe, cũng có cả âm thanh – cái là rúpa. Khi có cái thấy, cũng có cả đối tượng thị giác, cũng là rúpa.

Nina: Bạn muốn có kiến thức lý thuyết về tất cả nama và rúpa hay bạn muốn phát triển tuệ giác – cái kinh nghiệm trực tiếp đặc tính của các hiện tượng xuất hiện thông qua ngũ căn và ý căn? Có nhiều mức độ tuệ giác khác nhau và chúng ta nên nhận ra loại tuệ giác nào chúng ta đang phát triển.

Có nhiều loại rúpa, một số trong đó được tạo duyên bởi nghiệp, một số bởi tâm, một số bởi nhiệt độ và một số khác bởi vật thực. Có nhiều loại nama. Nama có thể tạo duyên cho rúpa và rúpa có thể tạo duyên cho nama với nhiều cách khác nhau

Câu hỏi: Tại sao bạn lại dùng từ “duyên”? Duyên có nghĩa là nguyên nhân phải không?

Nina: Khi chúng ta nói về nguyên nhân, chúng ta thường nghĩ về một nguyên nhân mang đến một kết quả. Tuy nhiên, có nhiều nhân duyên khác nhau cho mỗi một nama và rúpa. Chẳng hạn, khi có cái thấy, rúpa là đối tượng thị giác tạo duyên cho cái thấy với tư cách là một đối tượng. Nhưng cái thấy không chỉ có đối tượng thị giác làm duyên. Nhãn căn, một loại rúpa khác, cũng tạo duyên cho cái thấy. Khi nghiên cứu Giáo pháp, chúng ta sẽ hiểu hơn về các nhân duyên khác nhau và chúng ta sẽ thấy cách hoạt động của nhân duyên rất phức tạp mỗi khi chúng ta kinh nghiệm một đối tượng. Khi chúng ta biết rằng có nhiều yếu tố tạo duyên cho sự sinh khởi của các hiện tượng như cái thấy hay cái nghe, chúng ta sẽ hiểu hơn, ít nhất về mặt lý thuyết, rằng cái thấy hay cái nghe chỉ là hiện tượng do duyên khởi, rằng chúng không thuộc về một người hay một cái ngã nào.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải biết loại trí tuệ nào chúng ta cần phát triển; liệu chúng ta chỉ muốn phát triển hiểu biết lý thuyết về chân lý, bằng sự suy nghĩ về nó; hay chúng ta cũng muốn phát triển tuệ giác về chân lý thông qua kinh nghiệm trực tiếp nữa?

Câu hỏi: Tôi không hiểu sự khác biệt giữa suy nghĩ về chân lýkinh nghiệm trực tiếp chân lý. Làm thế nào chúng ta có thể kinh nghiệm trực tiếp chân lý?

Nina: Chân lý có thể được biết thông qua kinh nghiệm trực tiếp; tuy nhiên, không phải là một cái “ngã” biết điều ấy, mà là paññå. Paññå có thể trực tiếp biết các đặc tính khác nhau của nama và rúpa khi chúng xuất hiện. Chẳng hạn, khi chúng ta cảm thấy nóng, và sati hay biết đặc tính của cái nóng, bằng paññå, nó có thể được nhận biết là một loại rúpa. Không cần phải nghĩ về nó. Tại khoảnh khắc chúng ta nghĩ về nó hay chúng ta gọi nó là “rúpa”, đặc tính của cái nóng không thể được hay biết. Chỉ cái xuất hiện tại khoảnh khắc hiện tại mới được hay biết một cách trực tiếp. Hiểu biết có được từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại sâu sắc hơn hiểu biết có được từ việc suy nghĩ.

Câu hỏi: Khi có cái thấy, cái thấy được tạo duyên bởi rúpa là đối tượng của thị giác và rúpa là nhãn căn. Liệu tôi có thể kinh nghiệm được các rupa tạo duyên cho cái thấy không?

Nina: Điều quan trọng cần nhớ là chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm nama hay rúpa đang xuất hiện tại giây phút hiện tại; không phải là nama hay rúpa đang không xuất hiện. Tùy thuộc vào tích lũy của chúng ta và vào sự phát triển tuệ giác mà loại nama và rúpa nào có thể được trực nhận. Không thể quy định loại nama và rúpa nào chúng ta nên hay biết và theo thứ tự nào.

Câu hỏi: Có phải chúng ta không nên đặt tên cho các thực tại khi chúng ta chánh niệm về chúng, vì chúng đã diệt đi ngay lúc chúng ta gọi tên chúng?

Nina: Suy nghĩ về một cái tên có phải là một thực tại không? Nó có xuất hiện không?

Câu hỏi: Vâng, nó sinh khởi, nó là một loại nama. Chúng ta không thể ngăn loại nama đó xuất hiện.

Nina: Đúng vậy, nó sinh khởi bởi những nhân duyên riêng của nó. Chẳng phải bạn cũng nghĩ rằng thực tại này cũng có thể được biết hay sao? Khi có cái thấy, đặc tính của cái thấy có thể được biết. Khi có suy nghĩ về cái thấy là có một loại nama khác với cái thấy. Nếu chúng ta cố điều khiển chánh niệm và nghĩ rằng cần hay không cần chánh niệm về một loại thực tại cụ thể nào, điều ấy có nghĩa là chúng ta không nhận ra rằng chánh niệmvô ngã, anattå. Nama và rúpa sinh khởi bởi những nhân duyên riêng của chúng, chúng nằm ngoài sự kiểm soát. Nếu chúng ta cố gắng kiểm soát sati, chúng ta sẽ không biết thực tại như chúng là.

Câu hỏi: Tôi vẫn nghĩ rằng tốt hơn là không nghĩ về tên gọi của các hiện tượng. Có phải vậy không?

Nina: Không cần nghĩ về tên gọi của chúng; đặc tính của nama và rúpa có thể được kinh nghiệm trực tiếp. Nhưng nếu có nama – cái suy nghĩ về một cái tên sinh khởi, chúng ta không thể ngăn chặn nó, suy nghĩ là một thực tại mà cũng có đặc tính riêng của nó và nó cũng có thể được biết đến.

Câu hỏi: Tôi có nghe rằng Tứ niệm xứ hay “satipaììhåna” bao gồm: niệm thân, niệm thọ, niệm tâmniệm pháp. Làm thế nào tôi có thể chánh niệm theo bốn xứ như vậy?

Nina: Không cần nghĩ về “Tứ niệm xứ” khi chúng ta hay biết về nama và rúpa. Chúng ta chỉ có thể phát triển hiểu biết về thực tại đang xuất hiện tại giây phút hiện giờ. Đức Phật dạy Tứ niệm xứ để chỉ cho mọi người thấy rằng mọi nama và rúpa đều có thể là đối tượng của chánh niệm. Điều ấy không có nghĩa là chúng ta nên nghĩ về Tứ niệm xứ khi chúng ta hay biết. Chúng ta không thể kiểm soát loại nama hay rúpa nào sẽ xuất hiện; chúng là vô ngã, anattå.

Câu hỏi: Liệu chúng ta có thể gọi cái “tôi” là đối tượng của chánh niệm không? Nó nằm trong phần nào của Tứ niệm xứ?

Nina: Cái “tôi” của bạn ở đâu và đặc tính của nó là gì? Làm thế nào bạn kinh nghiệm nó và qua căn nào? Bạn có kinh nghiệm nó thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay ý căn?

Câu hỏi: Tôi chỉ có thể nghĩ về cái ngã nhưng không thể kinh nghiệm trực tiếp đặc tính của nó.

Nina: Chúng ta có thể nghĩ về nhiều thứ khác nhau, nhưng thực tại của khoảnh khắc đó chỉ là sự suy nghĩ. Trong phát triển minh sát, chúng ta học rằng cái chúng ta cho là ngã chỉ là nama và rúpa sinh rồi diệt ngay. Trên thực tế không có gì khác ngoài nama và rúpa. Vì vậy không có cái “tôi” nào đó nằm trong (đối tượng của) Tứ niệm xứ.

Câu hỏi: Thế còn các thực tại bên ngoài chúng ta, liệu chúng tatà kiến về chúng hay không?

Nina: Bạn có thể đưa ví dụ về các thực tại bên ngoài chúng ta được không?

Câu hỏi: Tôi muốn nói đến những thứ như cái chai, cái bàn hay cái ghế.

Nina: Những thứ như cái chai, cái bàn hay cái ghế không phải là thực tại tuyệt đối, chúng là những khái niệm mà chúng ta nghĩ đến. Do vô minhtà kiếnchúng ta cho rằng chúng trường tồn và có thực. Điều quan trọng cần biết là sự khác biệt giữa các thực tại tuyệt đối, nama và rúpa – những thứ có đặc tính riêng của chúng, và các khái niệm. Cái chúng ta gọi là cái chai, cái bàn hay cái ghế, trên thực tế, chỉ là các loại rúpa khác nhau sinh rồi diệt. Rúpa này diệt đi được thay thế ngay bằng rúpa khác chừng nào vẫn còn nhân duyên cho chúng sinh khởi.

Tà kiến về thực tại chỉ có thể được tận diệt khi đặc tính của nama và rúpa được biết đến khi chúng xuất hiện tại một thời điểm thông qua các căn khác nhau.

Câu hỏi: Tôi nghe nói về những người tập trung vào phồng xẹp. Họ nói rằng đôi khi có chánh niệm về sự sinh và diệt của rúpa và đôi khi có chánh niệm trên chánh niệm sự sinh diệt của rúpa. Đó có phải là cách phát triển chánh niệm đúng hay không?

Nina: Cái mà chúng ta gọi là bụng, trên thực tế, chỉ là các loại rúpa khác nhau. Sati chỉ có thể hay biết một đặc tính của rúpa tại một thời điểm. Chẳng hạn, thông qua thân căn chúng ta có thể kinh nghiệm những đặc tính cứng, mềm, nóng, lạnh, sự chuyển động và sự co giãn, nhưng chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm một trong những đặc tính đó tại một thời điểm.

Câu hỏi: Khi chúng ta kinh nghiệm rúpa là sự chuyển động, chúng ta không kinh nghiệm sự sinh diệt của rúpa ư?

Nina: Trong phát triển vipassanå, có nhiều giai đoạn tuệ giác (vipassanå ñåùa). Tuệ minh sát đầu tiên là, thông qua kinh nghiệm trực tiếp, biết rõ sự khác biệt giữa đặc tính của nama và đặc tính của rúpa, hay còn gọi là “tuệ phân biệt danh sắc” (tiếng Pali được gọi là: nåma-rúpapariccheda-ñåùa). Tại giai đoạn tuệ minh sát này, không có chút hoài nghi nào về sự khác biệt giữa đặc tính của nama và đặc tính của rúpa xuất hiện tại khoảnh khắc đó. Tuy nhiên, sự phát triển vipassanå cần phải tiếp tục nhằm có được sự hiểu biết rõ ràng hơn về nama và rúpa. Chỉ ở giai đoạn sau, sự sinh diệt của nama và rúpa mới được biết đến. Không thể đạt đến giai đoạn này nếu không chứng ngộ các giai đoạn trước. Làm sao có thể trực nhận sự sinh diệt của nama và rúpa nếu trước tiên không thấy rõ sự khác biệt giữa đặc tính của nama và rúpa.

Câu hỏi: Có phải sự sinh diệt của rúpa nhanh hơn chuyển động của bụng không?

Nina: Nama và rúpa sinh diệt cực kỳ nhanh. Chẳng hạn, dường như có cái thấy và cái nghe cùng một thời điểm. Trên thực tế thì không phải vậy. Cái nghe có thể sinh khởi ngay sau cái thấy, nhưng khi có cái nghe, cái thấy đã diệt mất hoàn toàn vì chỉ có thể có một citta tại một thời điểm. Chẳng hạn, chúng ta thấy rằng citta sinh và diệt rất nhanh, tiếp nối nhau. Mặc dù chúng ta biết rằng các thực tại sinh và diệt, chúng ta vẫn chưa có cái hiểu trực tiếp về sự thực đó. Hiểu về sự khác biệt giữa các đặc tính của nama và rúpa cần phải ngày một sắc bén hơn. Chỉ khi tuệ giác được phát triển ở mức độ cao mới có cái hiểu trực tiếp về sự sinh diệt của nama và rúpa.

Câu hỏi: Làm thế nào để tuệ giác có thể trở nên sắc bén hơn?

Nina: Chỉ bằng cách hay biết về nama và rúpa khi chúng xuất hiện, một lần tại một thời điểm. Có cái thấy hiện giờ không, hay cái nghe hiện giờ không? Nếu chúng ta cố gắng tập trung vào loại nama và rúpa cụ thể nào đó, khi đó sẽ chỉ là suy nghĩ mà thôi chứ không phải cái hiểu trực tiếp về bất kỳ thực tại nào xuất hiện ở giây phút hiện tại. Các thực tại như cái thấy, cái nghe, cứng hay suy nghĩ sinh khởi bởi nhân duyên riêng của chúng, chúng ta không thể quy định sự sinh khởi của chúng. Liệu chúng ta có nên biết đặc tính của chúng không? Hay chúng ta nên tiếp tục vô minh về chúng? Nếu chúng ta cố gắng tập trung vào một nama hay rúpa, chúng ta đang có tâm tham và điều này sẽ không dẫn đến sự xả ly khỏi ý niệm về ngã.

Câu hỏi: Dường như là chúng ta phải hay biết quá nhiều nama và rúpa khác nhau?

Nina: Chúng ta phải hay biết đi hay biết lại về nama và rúpa để có thể xả ly khỏi ý niệm về ngã. Sẽ là không đủ khi chỉ hay biết một loại nama hay rúpa. Cần có chánh niệm về bất kỳ loại thực tại nào sinh khởi. Nếu có chánh niệm mà không có ý niệm về ai đó đang chánh niệm, sẽ có nhân duyên để paññå dần dần biết rõ hơn về nama và rúpa. Không có ai có thể kiểm soát bất cứ thứ gì.

Câu hỏi: Tôi có thể thấy rằng rất hữu ích khi biết về sự khác biệt giữa nama và rúpa về mặt lý thuyết. Nhưng khi chúng ta hay biết về nama và rúpa, tôi có xu hướng nghĩ rằng không cần thiết phải phân biệt chúng; tôi hoài nghi liệu điều đó có giúp chúng ta xả lý ý niệm về ngã hay không.

Nina: Làm sao có thể có cái hiểu sâu sắc về các thực tại nếu chúng ta không thể nhận ra sự khác biệt giữa nama – loại thực tại kinh nghiệm cái gì đó, cảm thọ hay sự ghi nhớ, và rúpa – loại thực tại không kinh nghiệm cái gì cả? Nếu chúng ta không nhận ra sự khác nhau giữa nama và rúpa, chúng ta sẽ nhầm lần, chẳng hạn, giữa cái nghe là nama và âm thanh là rúpa. Khi có cái nghe thì cũng có cả âm thanh, nhưng sati chỉ có thể hay biết một đặc tính tại một thời điểm. Đôi khi có thể có chánh niệm về cái nghe, đôi khi về âm thanh. Nếu chúng ta không biết đặc tính nào xuất hiện, cái nghe hay âm thanh, điều đó rõ ràngchúng ta vẫn vô minh về thực tại xuất hiện tại giây phút hiện tại.

Câu hỏi: Thực tại tại giây phút hiện giờ diệt đi rất nhanh, làm thế nào chúng ta có thể nắm bắt được nó?

Nina: Nếu chúng ta cố gắng “nắm bắt” một thực tại, chúng ta không có cái hiểu đúng và vì vậy sự thật sẽ không được biết đến. Các thực tại được kinh nghiệm thông qua sáu căn, nhưng nếu tuệ giác chưa được phát triển, chúng ta không thể thấy rõ loại thực tại nào đang được kinh nghiệm qua căn nào. Chừng nào chưa có cái hiểu sâu sắc về đặc tính của các thực tại, sẽ vẫn chưa có sự xả ly khỏi ý niệm về ngã. Khi tuệ giác được phát triển hơn, paññå sẽ biết loại thực tại nào được kinh nghiệm tại căn nào.

Câu hỏi: Có phải rất khó để biết rằng một thực tại là nama hay rupa phải không? Dường như là rất khó!

Nina: Bạn có thể nghĩ rằng rất dễ biết cái thấy là một nama, khác với đối tượng thị giác là rupa, nhưng bạn có chắc chắn cái đang sinh khởi tại giây phút hiện tại là nama hay rupa không? Có sati không và sati hay biết cái gì?

Câu hỏi: Tôi không chắc về thực tại đang xuất hiện tại giây phút hiện giờ. Dường như là có cái thấy và đối tượng thị giác xuất hiện cùng một lúc.

Nina: Chánh niệm chỉ có thể hay biết một thực tại tại một thời điểm. Khi dường như đối với chúng ta, cái thấy và đối tượng thị giác “xuất hiện” cùng một lúc, khi đó không có sati, chỉ có sự suy nghĩ về các hiện tượng. Khi chúng ta chưa phát triển hiểu biết về các thực tại một cách sâu sắc, các thực tại sẽ không được biết khi chúng xuất hiện một lần tại một thời điểm. Chúng ta có thể biết về mặt lý thuyết rằng, nama khác với rupa, nhưng đó chưa phải là paññå có thể dẫn đến sự xả ly khỏi ý niệm về ngã.

Cần phải biết sự khác biệt giữa nama và rupa xuất hiện, nhưng chúng ta không nên cố gắng “nắm bắt” thực tại của giây phút hiện tại. Khi chúng ta mới bắt đầu phát triển tuệ giác, chưa thể có cái hiểu rõ ràng về các thực tại. Khi có chánh niệm liên tụcthường xuyên về đặc tính của các thực tại, paññå sẽ phát triển sắc bén đến mức chúng ta sẽ không còn coi các thực tại là ngã, là “ta” nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34331)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16867)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22967)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13049)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21960)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22182)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14863)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23574)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24100)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23631)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17142)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19349)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27059)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14420)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13837)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22685)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14735)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17354)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12667)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13861)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10408)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14689)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17198)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12543)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12697)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10356)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28715)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10696)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11129)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16870)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15765)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13338)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12552)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11356)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13027)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19305)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12245)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28592)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10042)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21518)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12788)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17824)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26220)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11704)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10847)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22745)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12034)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10601)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11391)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11521)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant