Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính cách đa dạng của tôn giáo

23 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7689)
Tính cách đa dạng của tôn giáo


ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN HẠNH PHÚC 
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: Wisdom Publications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Presses du Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việt dịch

4
Tính cách đa dạng của tôn giáo

Khi chưa nhìn thấy giá trị của những truyền thống tôn giáo khác, thật khó cho ta kính trọng các tôn giáo ấy. Tuy nhiên, sự kính trọng lẫn nhau phải căn cứ trên sự hài hoà chân thật. Chúng ta cần phải hướng đến một tình thần hài hoà, không phải vì lý do chính trị hoặc kinh tế, nhưng chỉ vì giá trị của các truyền thống khác. Riêng phần tôi, tôi luôn luôn cố gắng đề cao sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Dựa vào đức tin của mình để nâng cao các giá trị căn bản của con người là một tiến trình tích cực. Các tôn giáo chính trên thế giới đều nêu cao giá trị của tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ. Nhất định là mỗi tôn giáo thực hành theo cách thức của mình, nhưng tất cả đều nhắm vào những mục đích ít nhiều giống nhau – sống hạnh phúc hơn, trở nên từ bi hơn và xây dựng một thế giới với nhiều tình thương hơn –, sự đa dạng về phương pháp của các tôn giáo không quan trọng lắm. Tầm quan trọng lớn hơn là phải phát huy tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ ; các tôn giáo chính đều hàm chứa một tiềm năng như nhau. Một số người có xu hướng tin vào tôn giáo, và khi đã nhìn thấy sự đa dạng về năng khiếu trong các xu hướng của con người, thì ta phải hiểu rằng sự kiện có nhiều tôn giáo khác nhau là một điều hữu lý. Sự thực bao giờ cũng ích lợi.

Đến đây tôi xin đề cập đến vấn đề hài hoà tôn giáo bằng cách phân biệt thành hai cấp bậc tâm linh khác nhau.

Cấp bậc tâm linh thứ nhất :
đức tin và sự rộng lượng

Đối với các tôn giáo chính cũng như đối với tất cả mọi người, cấp bậc tu tập thứ nhất chính là đức tin. Tôi tin rằng tất cả các tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng, nhưng nếu muốn cho các tôn giáo có thể góp phần một cách hữu hiệu vào lợi ích chung của nhân loại, cần phải có hai yếu tố.

Yếu tố thứ nhất là mỗi cá nhân – tức là chúng ta đây – khi đã theo một tôn giáo nào thì nên thực thi một cách chân thật. Những lời giáo huấntính cách tôn giáo phải trở thành những gì gắn liền với đời sống của ta và lưu lại trong ta. Đôi khi ta bước vào một nhà thờ hay một ngôi chùa để cầu nguyện hay tĩnh tâm, nhưng lúc vừa đặt chân ra khỏi các nơi ấy thì những giây phút nhiệt tình hướng về tôn giáo chẳng còn lưu lại gì cả. Như thế không phải là cách tu tập đứng đắn. Những gì mà tôn giáo ủy thác phải được giữ lại trong ta, dù cho ta đang ở bất cứ nơi nào. Tất cả những lời giáo huấn của tôn giáo phải luôn luôn hiện hữu trong sự sống, mỗi khi ta cần đến những cảm ứng thiêng liêng hay một sức mạnh đạo đức, ta sẽ có ngay. Khi những cảm ứngsức mạnh đó đã hiện hữu thường xuyên trong ta, thi khi ấy ta mới có thể sử dụng chúng để đối đầu với những khó khăn vụt đến.

Tôn giáo chỉ thật sự hữu ích khi đã hội nhập vào đời sống của ta. Cần phải biết tôn giáo đã dạy ta những gì và hãy áp dụng ngay những điều học hỏi được vào những cảm nhận của ta. Đôi khi các ý niệm về tôn giáo chỉ được hiểu một cách thật lờ mờ trên phương diện lý trí. Nếu thiếu sự cảm nhận, sức hữu hiệu của tôn giáo sẽ rất giới hạn. Vì thế phải tu tập chân thành để giúp sự sống của ta thấm nhuần với tôn giáo.

Yếu tố thứ hai liên quan nhiều hơn với sự tương quan giữa các tôn giáo. Ngày nay, nhờ vào tiến bô kỹ thuật và hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta lại càng lệ thuộc với nhau nhiều hơn nữa. Những quốc gia cách biệt nhau, những lục địa xa xôi đều liên hệ mật thiết với nhau trong bối cảnh hiện tại. Sự liên hệ đó chặt chẽ đến đỗi sự tồn vong của một vùng nào đó trên địa cầu cũng đều liên hệ đến sự tồn vong của những nơi khác. Sự tương liên trên thế giới trở nên chặt chẽ hơn, vì thế sự tương tác giữa con người cũng mang tầm vóc rộng lớn hơn. Những biến chuyển trên đây chứng minh cho thấy thái độ chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo mang một tầm quan trọng vô biên. Trước đây, khi các tập thể con người sinh sống cách biệt nhau và các tôn giáo cũng tương đối bị cô lập, thì ý niệm chỉ cần một tôn giáo duy nhất còn có thể chấp nhận được, kể cả rất hữu ích nữa. Nhưng ngày nay, hoàn cảnh đã khác và tình thế đổi thay. Thật hết sức cần thiết phải chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo và chủ trương sự kính trọng lẫn nhau một cách thành thực, một sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các tôn giáo là một điều bắt buộc. Trên đây là yếu tố thứ hai giúp cho mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới trở nên hữu hiệu hơn trong các công tác chung về nhân đạo

Khi tôi còn sinh sống trên Tây tạng, ngoài Phật giáo ra tôi không có một dịp nào để tiếp xúc với các tín đồ của các truyển thống khác, thái độ lúc đó của tôi đối các tôn giáo khác không được tích cực lắm. Nhưng sau này khi tôi có dịp gặp những người thuộc các tín ngưỡng khác nhau, và nhân dịp đó để đào sâu những kinh nghiệm cá nhân, thì thái độ của tôi đối với các tôn giáo khác đã đổi thay. Tôi hiểu rằng các tôn giáo ấy hết sức cần thiết cho nhân loại và mỗi tôn giáo đều có tiềm năng đưa đến một thế giới tốt đẹp hơn. Suốt trong những thế kỷ vừa qua, các tôn giáo khác nhau đã góp phần tích cực để cải thiện con người, và kể cả ngày hôm nay, nhiều người tu tập đã đạt được sự thăng tiến nhờ vào các tôn giáo như Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo hoặc các truyền thống khác nữa.

Đối thoại với những người tu tập tthuộc những tôn giáo khác thật hết sức phong phú. Hãy lấy một thí dụ, các dịp dàm thoại giữa tôi với ông Thomas Merton, ngày nay đã qua đời, đã giúp tôi nhận ra ông là một con người tuyệt vời, và cũng giúp tôi hé thấy tiềm năng tinh thần hàm chứa trong đức tin Thiên chúa giáo. Vào một dịp khác, tôi làm quen với một nhà tu Thiên chúa giáo trong một tu viện nổi tiếng ở Montserra, thuộc Tây ban nha. Ông này đã sống ẩn dật nhiều năm trên một ngọn đồi phía sau tu viện. Khi tôi đến viếng vùng này, ông đã bỏ nơi ẩn cư để xuống gặp tôi, tiếng Anh của ông ta còn tệ hơn cả tiếng Anh của tôi, nhưng điều đó đã giúp tôi có thêm can đảm để đàm thoại với ông ! Chúng tôi ngồi đối mặt với nhau và tôi cất lời hỏi ông ta như sau : « Trong suốt những năm qua, ông đã làm gì trên đỉnh đồi thế ? ». Ông ta nhìn tôi một lúc rồi trả lời như sau : « Tôi thiền định về lòng từ bi và tình yêu thương ». Lúc ông ta cất lời để nói lên các tiếng ấy, tôi đã nhận thấy thông điệp trong mắt ông. Và tôi cảm nhận được một niềm kính trọng sâu xa nơi con người của ông và cả những người khác giống vơí ông. Đấy là những loại kinh nghiệm đã làm cho tôi tin rằng tất cả những tôn giáo trên thế giới, dù cho khác biệt trên lảnh vực triết họctín điều, đều có khả năng tạo ra những con người tốt. Mỗi tôn giáo đều quảng bá một thông điệp tuyệt vời.

Những lời giáo huấn xây dựng trên đức tin về một vị Trời sáng tạo nêu lên một hướng đi rất mạnh. Những người Thiên chúa giáo không tin vào sự tái sinh, cũng không tin vào các kiếp sống trước và các kiếp sống tương lai, nhưng sự vững tin là kiếp sống này do Trời tạo ra, đã giúp cho họ những xúc cảm gần gũi với đấng sáng tạo mà họ trực thuộc. Họ tiếp nhận những lời giáo huấn khuyên họ phải thương yêu các người đồng loại. Thật ra, nếu ta yêu quý Trời, ta phải yêu thương tất cả mọi người, bởi vì họ cũng như ta, tất cả đều là sự sáng tạo của Trời. Nếu như số phận tương lai của kẻ khác, cũng như của chính ta, đều nằm trong tay của Trời, thì đương nhiên chúng ta đều chịu chung một cảnh huống. Ngược lại, những ai đòi hỏi kẻ khác phải yêu mến Trời, nhưng chính mình thì lại không tỏ ra một dấu hiệu nào chứng tỏ tình yêu thương của mình đối với anh em và chị em cùng mang chung một đức tin, thì những kẻ đó thật đáng nghi ngờ. Bất cứ một người nào tin vào một vị Trời và vào tình thương của Ngài thì phải chứng tỏ một cách thành thật tình cảm của mình hướng về Trời bằng cách yêu thương người đồng loại. Cách suy diễn như thế tạo ra một sự tiếp cận mạnh mẽ, có phải thế hay chăng ?

Vì thế, khi ta quán xét một tôn giáo dưới nhiều khía cạnh khác nhau, như cách ta vừa làm – không phải bằng chính quan điểm triết học của ta, nhưng phải dựa trên nhiều cấp bậc khác nhau –, thì nhất định tất cả các tôn giáo chính đều mang tiềm năng giúp cho con người trở nên hoàn hảo hơn. Khi giao du với các tín đồ của các tôn giáo khác, ta sẽ biết mở rộng tâm thức và đưa đến một sự tương kính đối với các truyền thống khác. Tôi đã học hỏi được nhiều sáng kiến mới lạ liên quan đến các phương pháp tu tập khi tiếp xúc với các tôn giáo khác và đem ghép thêm vào cách tu tập của riêng tôi. Đồng thời, các anh em chị em Thiên chúa giáo cũng nên chọn và sử dụng một số kỹ thuật của Phật giáo – chẳng hạn như sự chú tâm vào một điểm và các phương pháp giúp phát huy sự rộng lượng, lòng từ bi và tình yêu thương. Những cuộc gặp gỡ và đối thoại như thế thật hữu ích, vì đã tích cực góp phần làm gia tăng thêm sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Các nhà chính trị và các nguyên thủ Quốc gia thường nói đến sự tương trợ và đoàn kết. Tại sao chúng ta là những người thuộc phía tôn giáo lại lại không thể nêu lên điều đó ? Tôi nghĩ rằng đã đến lúc phải làm việc ấy. Vào năm 1997, tại Abisse thuộc nước Ý, các người đại diện các tôn giáo khác nhau trên thế giới tập họp lại để cùng nhau cầu nguyện, tuy rằng tôi không tin chắc rằng chữ « cầu nguyện » là một chữ thích nghi để mô tả một cách chính xác cách tu tập của tất cả các tôn giáo. Nhưng cũng chẳng sao, điều thiết yếu là những thành phần tôn giáo thuộc các truyền thống khác nhau đã tụ hội lại cùng một địa điểm để cầu nguyện, theo sự tin tưởng riêng của mỗi truyền thống. Theo tôi biến cố đó mang một tính cách rất tích cực. Cần phải tiếp tục trên đường hướng ấy và gia tăng nhiều hơn nữa những cố gắng đem đến hài hoà và giúp các tôn giáo trên toàn thế giới xích lại gần nhau hơn. Nếu không, có thể chúng ta sẽ còn phải đối đầu với thật nhiều khó khăn có thể chia rẽ cả nhân loại.

Nếu như tôn giáo là một liều thuốc duy nhất có thể làm suy giảm những xung đột giữa con người, thì quả thật là một thảm họa nếu liều thuốc ấy lại hoá thành nguồn gốc đưa đến xung đột với nhau. Kể cả ngày nay cũng như từ ngàn xưa, những bất hoà nhân danh tôn giáo vẫn thường bùng nổ, tôi thấy điều ấy hết sức là đáng buồn. Khi suy tư một cách cởi mở hơn và sâu xa hơn, ta sẽ nhận thấy tình thế trong quá khứ khác hẳn với ngày nay. Trong tình thế hiện tại, thay vì bị cô lập, chúng ta trở nên liên đới với nhau nhiều hơn. Vì thế thật cần thiết phải tạo lập sự tương quan chặt chẽ giữa các tôn giáo, giúp cho các đoàn thể có thể hợp tác bên cạnh nhau trong nổ lực chung hướng về sự an lành của nhân loại.

Cấp bậc tâm linh thứ hai :
từ bi là một tôn giáo toàn cầu

Cấp bậc tâm linh thứ hai, vượt lên trên mọi dị biệt về tôn giáo, đó là lòng từ bi và tình thương yêu giữa con người. Cấp bậc này quan trọng hơn nhiều so với cấp bậc thứ nhất, vì dù rằng tôn giáotốt đẹp đến đâu, thì cũng chỉ có một số ít người theo. Hầu hết trong số năm đến sáu tỷ người trên hành tinh này, hình như không có mấy ai tu tập hoặc theo bất cứ một tôn giáo nào cả. Tùy theo truyền thống gia đình, họ tự nhận diện như thuộc vào nhóm này hay nhóm khác – « tôi là người thuộc Ấn độ giáo », « tôi là người Phật giáo », « tôi là người Thiên chúa giáo » –, nhưng thật ra trong chính lương tâm họ, họ không phải là những người tu tập. Cũng chẳng sao ! Một người nào đó gia nhập hay không gia nhập vào một tôn giáohoàn toàn thuộc quyền cá nhân của họ. Tất cả các vị thầy lớn trong thời cổ xưa, chẳng hạn như Đức Phật, Mahavira, Jésus, Mahomet, không có vị nào thành công trong việc khai tâm cho hết tất cả mọi người. Chưa hề có ai làm được việc ấy. Sự kiện gán cho những người không tin là vô thần cũng chẳng hề hấn gì. Một số các học giả Tây phương xem những người Phật giáovô thần, vì lý do họ không tin vào một vị sáng tạo. Cách hiểu như thế đôi khi bắt buộc tôi phải chọn những chữ khác chẳng hạn như chữ « cực đoan » để chỉ định những người không tin gì cả. Tôi gọi họ là những người « không tin cực đoan », bởi vì chẳng những họ không tin vào một tôn giáo nào hết mà đồng thời họ lại tin chắc chắn một cách quả quyết là bất cứ một hình thức tâm linh nào cũng đều vô ích. Chúng ta phải tự nhắc nhở để nhớ rằng những kẻ đó cũng đều là những thành phần của nhân loại, và cũng như tất cả kẻ khác, họ cũng muốn được hạnh phúc và sống một cuộc sống thanh thảnêm đềm. Chính đó mới là điều quan trọng.

Theo ý tôi, chẳng có gì là xấu nếu muốn làm một kẻ không tin, nhưng một khi đã là thành phần của giống người, thì họ đều có nhu cầu về thương yêulòng từ bi như nhau. Đấy là những gì thiết yếu nhất trong những lời giảng huấn của các truyền thống tôn giáo. Nếu khôngtừ bi thì ngay cả những người tin vào tôn giáo cũng có thể trở thành những người gây ra tai hại. Hơn nữa, dù ta tin hay không tin, thì sự tu tập căn bản vẫn thuộc vào lãnh vực của tim ta. Theo tôi, từ bitình thương yêu là tôn giáo toàn cầu. Tất cả mọi người đều cần đến những thứ ấy vì chúng mang lại cho ta sức mạnh nội tâm, niềm hy vọng và sự an bình trong tâm thức. Từ bitình thương yêu quả thật cần thiết cho tất cả mọi người.

Như tôi đã nói đến trên đây, một vài anh em và chị em người Thiên chúa giáo, kể cả những người tu hành hay thế tục, đã nói với tôi là họ từng sử dụng các phương pháp Phật giáo để phát huy lòng từ bi cũng như đức tin Thiên chúa giáo của chính họ. Tôi vẫn thường nhắc nhở các bạn hữu Tây phương rằng tốt hơn hết cứ giữ lấy tôn giáo truyền thống của mình. Thay đổi tôn giáo không phải dễ và đôi khi lại có thể gặp những chuyện rối rắm.

Nhưng đối với những ai thấy rằng con đường Phật giáo hữu hiệu và phù hợp hơn với cách suy nghĩ của mình thì khi đó mới nên đắn đo một cách nghiêm chỉnh về việc này. Và một khi đã hoàn toàn tin chắcPhật giáo phù hợp với mình, thì lúc đó cứ đến với Phật giáo, một cách hoàn toàn tự do không có sự ép buộc nào. Nhưng dù sao, sau đây là những gì không được phép quên : đôi khi vì muốn biện minh cho sự cải đạo của mình khi chọn một đức tin mới, một vài người có thái độ chỉ trích tôn giáo hay truyền thống trước đây của họ. Tôn giáo cũ trước đây dù không còn phù hợp với lòng tin của họ nữa, nhưng vẫn hữu ích cho nhân loại. Biết công nhận quan điểmquyền hạn của kẻ khác cũng như những giá trị trong truyền thống của kẻ khác, có nghĩa là quý vị phải tiếp tục tôn vinh tôn giáo trước đây của quý vị. Điều này thật hết sức quan trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34341)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16871)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22969)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13051)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21964)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22186)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14865)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23576)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24104)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23639)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17143)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19358)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27063)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14423)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13842)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22689)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14741)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17357)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12669)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13865)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10410)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14698)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17199)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12547)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12699)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10357)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10699)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11134)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16879)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15767)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13341)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12553)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11359)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13028)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19309)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12249)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28605)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10047)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21521)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12790)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17825)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26230)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11706)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10851)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22747)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12037)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10604)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11410)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11526)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant