Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Năm: Vị Đạo

25 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7477)
Chương Năm: Vị Đạo Sư

CHƯƠNG NĂM
 

VỊ ĐẠO SƯ 
 
Khamtrul Rinpoche là một vị Lạt Ma hóa thân đời thứ 8. 
 
Ngài đã đến Ấn Độ sau những ngày vượt biên giới đầy gian nan khổ sở. Một đêm, Ngài đã rời bỏ tu viện của Ngài ở Kham, miền Đông Tây Tạng, cải trang thành một người lái buôn cùng một số ít đệ tửtùy tùng, vượt biên giới Tây Tạng để trốn khỏi sự áp bức của Cộng Sản Trung Quốc
 
Khampagar là một tu viện đồ sộ nguy nga như một tòa lâu đài với những bức tường mầu vàng và mái nhà dát vàng thật lấp lánh chiếu dưới ánh mặt trời xứ Tây Tạng
 
Khampagar là thế giới của ngài Khamtrul Rinpoche gần suốt 30 năm. Nếu chúng ta đi ngược dòng thời gian 450 năm trước, từ năm 1548, suốt 8 đời hóa thân trước của đức Khamtrul Rinpoche, thì có thể nói, Khampagar là mái ấm, là hơi thở, là sự sống của Khamtrul Rinpoche. 
 
Khi ngài Khamtrul Rinpoche ra đời khoảng vào năm 1930, tu viện Khampagar đã là một trung tâm Phật học sầm uất và ảnh hưởng rộng lớn trên 200 tu viện lớn nhỏ khác, đã đào tạo hàng trăm ngàn tăng sĩ, và cả một dòng truyền thừa những vị đạonổi tiếng khắp Tây Tạng. Ngoài ra Khampagar còn là trung tâm nghệ thuật nổi tiếng Tây Tạng và vũ thuật cổ truyền của các vị Lạt Ma
 
Khi Cộng Sản Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, họ đã phá hủy biết bao chùa chiền, tu viện, và các di tích lịch sử của xứ này cùng giam cầm tra tấn hàng ngàn vị sư và dân chúng. 
 
Ngài Khamtrul Rinpoche bắt buộc phải rời bỏ tu viện dấu yêu và gạt nước mắt ra đi lưu vong qua Ấn Độ
 
Chuyến vượt biên của Khamtrul Rinpoche và đoàn tùy tùng thật vô cùng gian nan và nguy hiểm. Họ phải vượt qua những dòng sông đóng băng hay những con thác khổng lồ sẵn sàng cuốn phăng người ta trôi về biển cả. Nghe nói lại là, Ngài Khamtrul Rinpoche phải chú nguyện thần linh cầu xin giúp đỡ và tung cát vào những ngọn sóng nước kinh khủng đó mới trấn áp nổi tốc độ của sóng. Và huyền dịu thay, không có một ai bị chết và chút đỉnh đồ đạc đem theo cũng không bị mất. Sau trận hãi hùng đó, đoàn người của Khamtrul Rinpoche còn kinh hồn bạt vía vì chạm trán phải đoàn công-voa của lính Trung Quốc đang vận tải vũ khí trên đường. Nhưng một lần nữa, như có chư thiên hộ vệ, lại không có một ai bị bắt gặp. Sau cùng và có lẽ cũng là chướng ngại gian nan nhất là vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, dãy núi cao nhất thế giới. Khamtrul Rinpoche, với niềm tin sắt đá và nghị lực kiên cường, cuối cùng đã hướng dẫn đoàn người đến được Ấn Độ an toàn
 
Trong vài năm đầu, Khamtrul Rinpoche đi đi về về Dalhousie, quy tụ lại những tăng sĩ từ từ trốn khỏi Tây Tạngtái lập lại tu viện theo đường lối của tu viện Khampagar ở Tây Tạng
 
Ngày 30 tháng 6 năm 1964, Khamtrul Rinpoche đến học viện "Young Lama" viếng thăm Freda Bedi. 
 
Trong thời gian ở Dalhousie, Tenzin Palmo tạm làm thư ký cho trường học và nhiệm vụ của cô là kiểm soát đơn từ, thư tín các nơi gửi đến. Một lần, cô thấy có một bức thơ đề tên Khamtrul Rinpoche. Cô không biết Khamtrul Rinpoche là ai, nhưng khi cô đọc tên Khamtrul Rinpoche đến lần thứ hai, thì cô cảm thấy có một cái gì đó như là niềm tin dâng lên trong lòng cô. 
 
Cô hỏi bà Bedi, và sau khi nghe xong câu chuyện về ngài Khamtrul, cô mong mỏi được gặp ngài: 
 
 - "Càng nghe về Lạt Ma Khamtrul, tôi càng nao nức được gặp Ngài. Tôi cảm thấy đó là một vị đạo sư mà tôi sẽ quy ytu học theo." Khamtrul Rinpoche đến thăm học viện của bà Bedi đúng vào ngày Tenzin Palmo được 21 tuổi, ngày 30 tháng 6 năm 1964. 
 
Khi được bà Bedi báo cho biết, Tenzin quýnh quáng chạy vội vào phòng thay áo Tây Tạng và quàng mảnh vải trắng để dâng cúng Ngài Khamtrul theo nghi thức của Tây Tạng
 
Khamtrul Rinpoche ngồi trên ghế bành cao, với hai vị Lạt Ma trẻ tuổi (người ta nói hai vi Lạt Ma này là hóa thân của hai vị Bồ Tát). 
 
Tenzin kể lại : 
 
- "Tôi sợ quá nên không dám ngẩng đầu lên xem Khamtrul Rinpoche mập ốm, cao lùn thế nào. Tôi chỉ nhìn gấu áo và đôi giầy nâu của Ngài." 
 
Bà Bedi giới thiệu Tenzin lên ngài Khamtrul và kể sơ về mục đích cô đến đây cốt yếu chỉ tìm một vị đạo sư để dẫn dắt cô tu học. Tự nhiên Tenzin buột miệng nói lớn :"Thưa với Ngài rằng, tôi muốn xuất gia." 
 
 - "Ồ, lẽ dĩ nhiên là được." Khamtrul Rinpoche ôn tồn trả lời
 
Ngay lúc ấy, Tenzin ngước mắt nhìn lên Khamtrul Rinpoche. Ngài là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt tròn nhưng rắn rỏi và mái tóc búi cao trên đầu như Đức Phật. Ngài lớn hơn Tenzin độ hơn mươi tuổi. Khi nhìn thấy Khamtrul Rinpoche, Tenzin cảm thấy như gặp lại một hình bóng thân thiết đã xa cách bao nhiêu lâu nay. 
 
Ba tuần lễ sau, Khamtrul Rinpoche chủ trì buổi lễ xuất gia của Tenzin vào ngày 24 tháng 7 năm 1964. 
 
Tenzin gửi tấm hình cô cạo đầu, mặc áo nữ tu Tây Tạng cho bà Lee Perry, mẹ cô, và viết :"Mẹ xem con trông rất khoẻ mạnh và gọn ghẽ hay không? Con rất sung sướng được xuất gia." 
 
 - "Tôi biết mẹ tôi không muốn tôi đi tu và sống xa bà ấy; nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy giải thoát nhẹ nhàng khi cạo sạch đầu, và mặc chiếc áo tu sĩ này." 
 
Cô được thầy cô, Khamtrul Rinpoche, ban cho pháp danh Drubgyu Tenzin Palmo (có nghĩa là "vị nữ tu sẽ làm rạng danh giáo pháp truyền thừa"). Cô là người nữ Tây Phương thứ nhì sau Freda Bedi xuất gia theo tông phái Phật giáo Tây Tạng. Sau này, có rất nhiều phụ nữ từ các nước Âu Châu, Nam Mỹ, Úc đại Lợi, và Tân Tây Lan đã theo Tenzin Palmo xuất gia cầu đạo
 
Tình thầy trò giữa Khamtrul Rinpoche và Tenzin Palmo thật sâu đậm. Cô luôn luôn được sư phụ trìu mến gọi "Tenzin, đệ tử của ta !", và cô cảm thấy được che chở bao bọc trong tình thương của Sư Phụ
 
Khamtrul Rinpoche là một vị đại sư không những nổi tiếng về thần lực mà còn về tác phong đạo hạnh. Ngài luôn luôn được mọi người sùng bái kính mến; cả những người theo đạo Hồi và Ấn Độ giáo cũng rất tôn trọng kính sợ Ngài. 
 
Tenzin Palmo đã từ giã quê hương, rời xa gia đình, và ngay cả những đam mê ước vọng của tuổi trẻ để xuất gia tìm đạo; nhưng còn một vấn đề uẩn khúc trong tâm mà cô chưa hoàn toàn dứt khoát được. Đó là vấn đề tình cảm giữa cô và người thanh niên Nhật Bản
 
Không bao lâu sau ngày Tenzin xuất gia, cô nhận được thơ của John Blofeld, một văn sĩ người Anh nổi tiếng, mời cô viếng thăm gia đình ông ta ở Thái Lan. Tenzin nghĩ đó là một đề nghị hấp dẫn. Thái Lan là một quốc gia Phật giáo; hơn nữa John Blofeld và vợ ông ta rất hiếu khách, và tiện nghi nhà ông ta ở Thái Lan thì quả hết chê vào đâu được. Cô xin phép Khamtrul Rinpoche và được Ngài cho phép đi với lời nhắn nhủ "Con nhớ trở về sớm." 
 
Khi Tenzin Palmo đến Thái Lan thì một sự tình cờ xảy ra quá sự tưởng tượng của cô. 
 
Tenzin gặp lại anh chàng si tình người Nhật Bản mà cô đã gặp trên chuyến tàu qua Ấn. Cô đã viết thơ nói rõ với anh ta là cô đã xuất gia và lời ước hẹn giữa họ ngày nào coi như chấm dứt - nhưng anh ta nghe các bạn cô nói lại rằng Tenzin sẽ qua Thái Lan nên anh ta tìm cách qua Thái mong Tenzin sẽ hồi tâm chuyển ý nhận lời cầu hôn của anh ta. Thực sự, Tenzin Palmo cũng do dự xiêu lòng khi thấy sự thành khẩn của anh ta. Cô mới xuất gia và Khamtrul Rinpoche chỉ mới cho cô thọ có một giới là "Cấm Sát Sanh". Người thanh niên Nhật Bản này thật có sức hấp dẫn cuốn hút, Tenzin thấy bối rối pha lẫn thích thú mê đắm mỗi lần gặp anh ta. 
 
 - "Chúng tôi trò chuyện thật tâm đầu ý hợp. Anh ta đề nghị tôi đi Hồng Kông và ở đó vài tháng chờ cho tóc mọc ra trở lại; sau đó chúng tôi sẽ làm đám cưới ở Nhật. Bố mẹ anh ta rất giàu có và tân tiến. Nếu tôi bằng kết hôn với anh ta, họ sẽ xếp đặt mọi việc chu đáo và ổn thỏa. 
 
 "Tôi nhớ lại những ngày ở Dalhousie. Nếp sống ở đó thật cơ cực. Ngày đó, những tu viện Tây Tạng chưa được xây dựng hay tái lập lại. Những tăng sĩ đều sống trong những túp lều ngoài đồng trống hay núi. Họ không có cả vòi nước máy, và có chỗ thì bùn sình ngập đến đầu gối - còn nhà cửa của bố mẹ anh chàng Nhật Bản thì thật tiện nghisang trọng , hết chỗ nói. Đời sống sẽ đáng yêu hạnh phúc biết chừng nào bên cạnh người yêu và vật chất sung mãn !" 
 
Tenzin bị dằng co mâu thuẫn giữa lý trí và con tim. Tiếng gọi tâm linh trong cô vẫn có một mãnh lực khiến cô không thể nào quay lưng để chạy theo tình yêu được. Cô lo sợ, đau khổ, dằn vặt; và một đêm, trong nước mắt nghẹn ngào, cô chằp tay cầu cứu Sư Phụ hãy giúp cô sáng suốt chọn đúng cho mình một hướng đi nhất định
 
Kỳ diệu thay, ngài Khamtrul Rinpoche đã nghe được tiếng kêu cầu cứu của đệ tử mình. 
 
Tenzin thấy như có một luồng ánh sáng mầu vàng soi sáng toàn thân và giọng nói của Khamtrul Rinpoche, Sư Phụ cô, rõ ràng bên tai :"Hãy trở về Ấn Độ lập tức !" 
 
- "Tôi vô cùng sung sướng. Tôi đã được che chở, đã được cứu độ. Tôi chắc chắn sẽ dứt khoát được sự sa lầy vào vòng luân hồi đau khổ." 
 
Sáng mai, Tenzin mua vé về Ấn Độ lập tức, và từ đó cô không bao giờ gặp lại người thanh niên Nhật Bản đó nữa.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14294)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14346)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13260)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14625)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12636)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25212)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27853)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15905)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22123)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17124)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24886)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16165)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21716)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16776)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14662)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16695)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16602)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18003)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12913)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14596)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27990)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27156)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20924)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14664)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24166)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28651)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14728)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16431)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27214)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16066)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant