Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhị Đế

27 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7502)
Nhị Đế

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 & Mike Austin
VẦNG SÁNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG

Thích Nhuận Châu dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Lao Động

NHỊ ĐẾ


MIKE AUSTIN: Xin ngài trình bày về hai loại chân lý: chân lý tuyệt đốichân lý quy ước. Chúng là gì, và vận hành như thế nào?

ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này rất quan trọng. Lấy cái bàn này làm thí dụ. Nếu người ta tìm kiếm đối tượng thể hiện - tự thân cái bàn - thì không thể nào tìm ra được. Nếu người ta chia cái bàn ra từng phần theo ý nghĩa chiều kích vật thể hoặc theo phẩm tính chất lượng, thì không thể nào tìm ra được tính chất tổng thể cái bàn là gì.


Thực vậy, đối với tâm thức chúng ta, có sự phân biệt rõ ràng giữa toàn thể và từng phần khi chúng xuất hiện trước chúng ta, dường như cái toàn thể tách biệt với từng phần - các phần tách biệt với toàn thể.


Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy. Bây giờ, khi khảo sát theo hướng này, chúng ta sẽ không bao giờ thấy được cái bàn. Dù vậy, sự không tìm thấy này không có nghĩa là cái bàn không hiện hữu. Chúng ta đang sử dụng nó, đúng không? Nhưng nếu chúng ta tìm kiếm, thì chúng ta không thấy nó.


Thế nên có hai cách thức tồn tại của cái bàn. Một là sự thừa nhận “cái bàn” bằng tâm thức mà không cần phải phân tích, và “cái bàn” chỉ hiện hữu theo quy ước. Loại “cái bàn” ấy chỉ được tìm thấy trong dạng tâm thức ấy. Tuy nhiên, nếu bạn xem “cái bàn” như là một đối tượng, nếu bạn không hài lòng với chỉ cái vật thể mà bạn đặt tay lên, mà tìm kiếm để khám phá xem nó thực sự là gì trong các phần - hoặc phần này là “cái bàn”, hay phần kia là “cái bàn” - thì sẽ không có bất cứ điều gì có thể tìm thấy được là “cái bàn”. Tại sao có sự không tìm thấy cái bàn? Vì “cái bàn” là một cái gì đó mà nếu tìm kiếm bằng phân tích sẽ không thể thấy được.


Bây giờ tâm thức khám phá được gì qua việc tìm kiếm “cái bàn” trong những bộ phận của nó? Chỉ tìm thấy được sự không tìm thấy cái bàn. Chính tự thân sự không tìm thấy này là một tính chất của cái bàn, là tính chất cơ bản, nền tảng của nó. Sự không tìm thấy này là bản chất tối hậu của cái bàn. Những gì vi tế hơn không hiện hữu. Do vậy, đây chính là phương thức tuyệt đối hay tối hậu để thiết lập nên thực thể gọi là “cái bàn”.


Kiểu tồn tại này được tìm thấy trên phương diện đồng nhất “cái bàn” và tính chất cơ bản, nền tảng của nó. Do vậy, sự không tìm thấy của cái bàn là kiểu tồn tại thực sự của cái bàn.


Như vậy, dựa trên một cơ sở, cái bàn có hai bản tính: một được tìm thấy bởi tâm không phân tích, và một được tìm thấy bởi tâm phân tích. Rồi dựa trên một cơ sở khác, có một đối tượng được tìm thấy bởi tâm thức phân biệt thực tại tuyệt đối và một đối tượng được tìm thấy bởi tâm thức phân biệt theo quy ước. Vì thế nên nói rằng: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Hai điều này loại trừ lẫn nhau. Hai sự thực ấy chỉ là một thực thể nhưng chúng loại trừ lẫn nhau.


MIKE AUSTIN: Loại trừ lẫn nhau như thế nào?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt hiện tượng, cái gì là chân lý tuyệt đối thì chẳng phải là chân lý quy ước và ngược lại.


MIKE AUSTIN: Vậy sẽ là sai lầm khi nói rằng chúng khẳng định lẫn nhau?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cái này không khẳng định cái kia. Dù vậy, nếu bạn dựa vào thực tại tuyệt đối hoặc tánh không của cái bàn như là nền tảng và tìm kiếm xem nó có thể tìm được không, thì nó sẽ trở thành chân lý quy ước theo nghĩa chính nó là nền tảng đó. Trong mối tương quan với cái bàn, tánh không của nó là một chân lý tuyệt đối, nhưng trong tương quan với thực tại của chính nó, có nghĩa là thực tại của thực tại, thì đó là chân lý quy ước.


Nếu có cái gì đó là phương thức hiện hữu của chính nó thì thật mâu thuẫn! Do vậy, thực tại của một cái gì đó không phải là thực tại của chính nó. Điều này là bởi vì khi thực tại được tìm kiếm, khi bản chất của sự vật được tìm kiếm, thì cũng đều không thể tìm được.


MIKE AUSTIN: Khi tánh không lần đầu tiên trình hiện trong tâm, nó như thế nào?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cho dù thuật ngữ pháp tánh không có ý phủ định chút nào trong đó, nhưng khi điều đó - thể tính hay thực tại của hiện tượng - trình hiện trong tâm, thì nó phải trình hiện qua cội nguồn của sự phủ định. Sự phân biệt này rất quan trọng.


Tôi sẽ trình bày trong ngữ cảnh về Nhị đế được đề ra trong tác phẩm Căn bản Trung quán luận tụng của ngài Long Thụ. Phải chăng khi tồn tại trên cơ sở tự tính được tìm ra, nó chẳng được lập thành bởi vì nó không tồn tại, hoặc dù nó tồn tại, nó cũng không được tìm thấy bởi vì nó không thể nào có được dưới sự phân tích? Chính là điều thứ nhất. Khi bạn quán sát cách thức sự vật trình hiện trong tâm thức mình, thấy chúng xuất hiện như thể chúng được tìm thấy bằng sự phân tích. Do vậy, nếu hiện tượng tồn tại như cách chúng trình hiện trong tâm chúng ta, thì khi bạn quán sát chúng, chúng sẽ càng trở nên rõ ràng hơn. Thực tế là chúng không như vậy, mà là một dấu hiệu rằng chúng không tồn tại như cách chúng trình hiện. Nói tóm tắt, dù chúng trình hiện như chúng tồn tại trên cơ sở tự tính, chúng vẫn không hiện hữu theo phương thức ấy.


Trong tâm bạn ban đầu đã có cảm giác rằng đối tượng không hiện hữu theo cách nó đang trình hiện. Khi bạn quen với suy nghĩ này rồi, cuối cùng bạn sẽ có sự khẳng định rằng đối tượng không tồn tại chút nào theo cách chúng đang trình hiện. Ngay lúc đó, cảm nhận riêng của bạn về sự trình hiện là một kinh nghiệm về sự trống rỗng, vốn chỉ đơn giản là không có sự tồn tại trên cơ sở tự tính.


Ngay khởi đầu của tiến trình này, đối tượng - cái này vốn là không - có thể vẫn trình hiện. Theo cách dễ hiểu, như khi xem phim, bạn có thể phân biệt hai thời gian khác nhau. Trong cả hai trường hợp, hình ảnh đều xuất hiện qua nhãn thức bạn. Nhưng trong trường hợp thứ nhất, người ta chỉ quan sát hình ảnh, trong khi với trường hợp thứ hai, bạn luôn có suy tưởng chắc chắn rằng điều này không hề tồn tại như một sự kiện có thực.


Nếu bạn duy trì và phát huy ý tưởng rằng chúng không hiện hữu - nếu bạn tập trung vào tính phi hiện hữu của nó - thì dần dần sự trình hiện sẽ tự biến mất. Điều này là do nơi điều kiện tiên khởi tức thì của nhãn thức sẽ bắt đầu giảm trừ đi. Do vậy, khi bạn bắt đầu khẳng định tánh không, đó chỉ đơn thuần là sự phủ định hay vắng bặt của đối tượng phủ định - sự tồn tại trên cơ sở tự tính được khẳng định. Ngay cả cho dù ban đầu đối tượng vẫn xuất hiện, thì dần dần với sự tập trung vào tánh không, đối tượng sẽ biến mất. Rồi nhờ vào sự quán sát tánh không của đối tượng, nên khi đối tượng tái trình hiện thì bạn sẽ sinh khởi ý tưởng là nó không tồn tại theo như vẻ ngoài của nó.


Đây được gọi là trình hiện như huyễn. Đến mức này bạn có thể chế ngự được phiền não của mình. Những tâm thức mê lầm này không còn cách nào để hiện hành vì không còn sự hỗ trợ của ý niệm tồn tại trên cơ sở tự tính. Dù đối với người sơ cơ, còn có những trường hợp khi ý niệm tồn tại trên cơ sở tự tính hoạt động như một trợ thủ cho tâm thức đúng đắn, nói chung, không cần thiết một tâm thức như vậy phải có sự giúp sức của sự nhầm lẫn về bản tính của sự hiện hữu.


Do vậy, một tâm thức nhận ra rằng đối tượng không tồn tại theo cách riêng của nó sẽ rất có ích để ngăn ngừa sự phát triển phiền não, trong khi đó không làm chướng ngại một tâm thức tốt lành.


MIKE AUSTIN: Trong khoảnh khắc nhận thức được tánh không - khi đối tượng biến mất - cảm giác đó như thế nào?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi chỉ nêu ra một ví dụ truyền thống. Chẳng hạn, hình chiếu trong gương của một khuôn mặt là tánh không của cái đang là khuôn mặt, nhưng tánh không của cái đang là khuôn mặt đó thì không có thực; tánh không của nó tồn tại trên cơ sở tự tính của đối tượng thì có thực. Khi từ trong sâu thẳm của tâm nhận ra sự vắng bặt dạng tồn tại của đối tượng, thì đến mức đó, các thức khác không còn được phát huy nữa. Ngay cả ý niệm “đây là tánh không” cũng không được tạo ra. Nếu bạn có ý tưởng “đây là tánh không”, thì tánh không ấy sẽ xa lìa ngay. Cũng giống như một đối tượng dưới sự quán sát. Nó sẽ không đạt đến mức hiện hữu như một đối tượng có thực của sự lĩnh hội bởi tâm thức.


MIKE AUSTIN: Thế là có sự biến mất ý niệm nhị nguyên?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, ngay cả ở đây vẫn còn ý niệm nhị nguyên. Có ý niệm nhị nguyên của trình hiện từ đối tượng quy ước cũng như của trình hiện từ ý niệm về tánh không.


MIKE AUSTIN: Nếu ngài muốn mô tả chính ý niệm về mặt quy ước, ngài có cho rằng nó trong sáng, rỗng không, sống động và toả chiếu hay không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều ấy rất khó mô tả. Để giải thích điều này chính xác thì rất khó. Có nhiều dạng trình hiện nhị nguyên khác nhau. Một là trình hiện theo quy ước - đối tượng như chúng ta thường thấy. Rồi có trình hiện của tồn tại trên cơ sở tự tính; cũng có trình hiện của chủ thể và đối tượng như thể khác biệt nhau và trình hiện của một hình tượng chung - hình tượng bao trùm mọi đối tượng trong một nhóm đặc thù. Khi người ta đã quen với tâm trực nhận tánh không - tu tập và thậm chí đi xa hơn và vượt lên trên định đẳng trì - và điều đó trở thành trực giác; thì đối với tâm thức ấy các dạng trình hiện nhị nguyên đều mất sạch.


MIKE AUSTIN: Không có sự chiếu soi tự nhiên hoặc toả sáng đối với trình hiện tánh không hay sao?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, nhưng về phương diện thực hành Tan-tra thừa lại là chuyện khác. Đó không phải là từ quan niệm về tánh không, mà từ ý thức. Nhờ vào sự chuyển hóa các thức thô động hơn mà có nhiều dạng trình hiện khác nhau. Những trình hiện này là kết quả từ tâm thức vi tế hơn cũng như sự liên hệ với thân được cấu tạo bởi những thành phần trắng, đỏ, v.v...


MIKE AUSTIN: Xin ngài có thể mô tả tâm của một đức Phật?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Những điều gì ngăn trở tâm đạt đến nhất thiết trí được gọi là sở tri chướng. Về mặt sở tri chướng, còn có những tiềm năng được an lập bằng ý niệm tồn tại trên cơ sở tự tính, và nguyên nhân khiến đối tượng hiện ra như thể chúng tồn tại trên cơ sở tự tính hoặc hiện hữu một cách cụ thể. Cho dù hiện hữu hư vọng của đối tượng chủ yếu là sai lầm của chủ thể - thức nhận biết đối tượng ấy - nhưng cũng có thể có một số hiện tượng hư vọng của đối tượng là do tự chúng bị nhiễm ô bởi vô minh hoặc những tiềm thể của vô minh. Từ trình hiện này - thuộc đối tượng tồn tại trên cơ sở tự tính - có sự nhiễm ô khiến nhận thức về nhị đế là hai thực thể khác biệt. Do sự nhiễm ô này, khi hiện tượng sinh khởi, chúng dường như hiện hữu theo cách riêng của chúng, vì thế nên ngăn cản sự trình hiện thực tại của chúng.


Tương tự, trong khi thực tại của đối tượng trình hiện thì chính đối tượng lại không thể hiện ra. Chúng ta đang nói về sự trực nhận. Tuy nhiên, một khi sở tri chướng này được loại trừ thì trong lúc nhận biết một đối tượng người ta có thể biết được bản chất của chúng, và khi nhận biết được bản chất người ta có thể biết được đối tượng. Khi ấy, tâm thức con người có thể trực nhận tức thời cả đối tượng và bản chất của chúng.


Thế nên nhất thiết trí - từ quan niệm nhận biết đối tượng quy ước - là tâm thức nhận ra được sự đa dạng của mọi hiện tượng. Từ quan niệm cái biết của thức về bản chất của đối tượng, nó là tâm thức nhận biết phương diện thức hiện hữu của các đối tượng, có nghĩa là tánh không. Nhưng đó chỉ là một tâm thức mà biết được cả hai phương diện. Đây là khía cạnh đặc biệt về nhất thiết trí của đức Phật.


MIKE AUSTIN: Tại sao nhất thiết trí tùy thuộc vào sự giải trừ câu sanh phiền não thông qua tâm từ?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Động cơ để mong cầu nhất thiết trí là để cứu giúp người khác. Để làm được như vậy, chúng ta phải biết cách cứu giúp người khác. Thế nên, không được để cho bất cứ điều gì ngăn trở. Những sự nhiễm ô làm chướng ngại tri kiến về những địa vị tu chứng khác nhau, những điều quan tâm, v.v... của hành giả, đều là trở ngại chính của một vị Bồ Tát. Dù trong bất cứ trường hợp nào thì sở tri chướng cũng không bao giờ có ích cho vị Bồ Tát. Trong khi đó, những trở ngại cho sự giải thoát, tức là những phiền não, đôi khi lại có ích trong việc lợi lạc cho kẻ khác (như khi người lãnh đạo có nhiều con cái để giúp cho ông ta trong việc cai trị).


Việc sử dụng nhận thức về tánh không như sự đối trị sở tri chướng phụ thuộc rất nhiều vào nguyện lực. Ngay cả sự nhận biết về tánh không trong tiến trình tương tục của một vị Thanh văn hay Độc giác cũng không khác với sự nhận biết trong tiến trình tương tục của một Bồ Tát Đại sĩ, nhưng vị Bồ Tát có khả năng đối trị được sở tri chướng là nhờ vào nguyện lực và cũng nhờ vào công đức lớn lao.


Không có cách nào để sự tích tập trí tuệ dẫn đến thành tựu vị mà không có sự tích tập công đức. Giống như khi bạn muốn đỡ một cây xà nhà, bạn cần phải dựng lên hai cây cột. Dù bạn không cần cây cột này để dựng lên cây cột kia, nhưng để đỡ cây xà lên thì nhất thiết phải dùng đến cả hai cây cột. Cũng vậy, để cho nhận thức về tánh không trở thành Pháp thân Phật, nhất thiết phải có đủ những nguyên nhân thiết yếu để phát sinh một Sắc thân.


MIKE AUSTIN: Làm thế nào để phương tiện từ bitrí tuệ tánh không được hoàn toàn đồng nhất với nhau?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong Viên mãn thừa, có sự mô tả về trí tuệphương pháp kết hợp. Ví dụ, trước khi hành giả đi vào tu tập định lực đẳng trì về tánh không, hành giả phải phát nguyện tu tập đạt đến giác ngộtâm nguyện muốn cứu vớt mọi chúng sinh. Thế nên tu tập định lực đẳng trì sẽ được kết hợp với nguyện lựctâm từ bi. Cũng vậy, khi hành giả tu tập hạnh từ bi - như bố thí, trì giới.v.v... - thì những điều này phải được kết hợp với động lực của tâm trực nhận tánh không. Thế nên trong phương pháp này, có sự hợp nhất của trí tuệphương tiện, phương diện này ảnh hưởng đến phương diện kia.


Trong Man-tra thừa, có sự hợp nhất giữa phương tiệntrí tuệ trong tâm thức, và còn là khía cạnh sâu thẳm hơn về sự hợp nhất trong Vô thượng Du-già Tan-tra.


MIKE AUSTIN: Trong tâm chư Phật, tính diệu lạc được hợp nhất với điều này như thế nào?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng, có cảm nhận về diệu lạc. Trong tâm niệm của chư Phật, mọi hiện tượng đều là trình hiện thanh tịnh, và là trình hiện diệu lạc.


MIKE AUSTIN: Từ nhận thức riêng của một vị Phật, liệu hiện nay đau khổtồn tại trong ngài hay không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có, nhưng không phải từ nhận thức riêng của đức Phật, mà là do sự hiện hữu của đau khổ ở những người chịu đựng khổ đau.


MIKE AUSTIN: Trình hiện tồn tại trên cơ sở tự tính có diễn ra trong đức Phật không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có, nhưng không phải từ nhận thức riêng của ngài, mà qua cách trình hiện đối với một người chưa từ bỏ được sở tri chướng. Sự trình hiện tồn tại trên cơ sở tự tính, nói chung là có hiện hữu. Nếu một sự kiện nào đó hiện hữu và nó lại không hiện hữu đối với đức Phật thì sẽ là một sự mâu thuẫn. Do vậy, bất kỳ sự hiện hữu nào cũng đều có hiện hữu đối với đức Phật, nhưng không nhất thiết phải là từ nhận thức riêng của ngài. Chính là thông qua năng lực trình hiện của nó đối với người khác và chỉ qua đó mà nó thực sự trình hiện.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34362)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16873)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22972)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13054)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21968)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22189)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23586)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24121)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17146)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19363)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27075)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14426)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13846)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12682)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13872)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10412)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14709)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17201)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12712)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10374)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10712)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16882)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15782)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13344)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12560)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11369)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13031)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19315)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28614)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10054)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21528)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12796)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17827)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26240)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11708)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10854)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22761)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12048)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10608)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11421)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11536)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant