Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Quy Y Tam Bảo

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5873)
23. Quy Y Tam Bảo


23. Quy Y Tam Bảo

(Niệm hương bạch Phật).

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo.
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ.
Tâm bồ-đề kiên cố,
Chí tu học vững bền,
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bề giác
*
Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tron một niềm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng vương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trú Tam bảo.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa-bà giáo chủ, đại từ bi Thích Ca mâu ni Phật, Đương lai hạ sanh Di lặc tôn Phật, Đại trí Văn thù sư lợi Bồ-tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ-tát.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi, A-di-đà-Phật, Đại bi Quán thế âm Bồ-tát, Đại-lực-Đại thế chí Bồ-tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ-tát.

Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ-tát (3 lần).

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni: Nam mô hát ra đát ra đát ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ-đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca da. Án Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá, na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát diệt tha. Án .A bà lô hê, lô ca dế. Ca ra dế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dà ra dá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lị, phạt xa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà da bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì.. Địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra da, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án, tất điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà da, sa bà ha.

*

Hôm nay có các đệ tử phát tâm quy y Tam bảo, tức là quy y Phật, qui y pháp, quy y Tăng.

Quy y có nghĩa là trở về nương tựa. Phật như cha mẹ đối với chúng sanh luôn luôn đem tâm từ bi thương yêu dìu dắt giáo hóa. Nhưng chúng sanh có người có duyên có phước vâng theo lời Phật trở về theo con đường giác ngộ của Ngài tu hành, cũng có người không vâng theo lời Đức Phật mà bước theo con đường si mê lầm lạc. Một ngày nào đó, kẽ lầm lạc đó nhớ lại, biết lại, muốn tìm con đường sáng suốt giải thoát, sống cuộc đời an lạc, cho nên trở về với Đức Phật, nương tựa theo Đức Phật, làm đệ tử Đức Phật, tôn thờ Đức Phật làm vị Bổn sư của mình. Như vậy gọi là qui y.

Thế nào là qui y Đức Phật?

Quy y Đức Phậtqui y đấng Giác ngộ giải thoát. Đức Phật Thích camâu ni vốn là một vị Thái tử, một vị vua không thiếu thứ gì đối với thế gian. Thế tại sao Ngài lại bỏ ngôi vua để đi xuất gia, sống một minh trong rừng sâu khổ hạnh 6 năm trường. Trong khi người thế gian mong mỏi được cái ngôi vị như Ngài, giàu sang phú quí như Ngày mà không được, trong khi Ngài đã được rồi còn thiếu gì nữa mà Ngài bỏ để đi tu? Tu một mình sống cực khổ trong 6 năm ở chốn rừng sâu là vì Ngày thấy rằng, cuộc đời vô thường mong manh, bao nhiêu vật chất của cải có đó không đó, nếu không tỉnh ngộ mà đắm say theo cảnh đời như vậy, chấp chặt cái đó là của mình như tài sản, danh vọng trôi qua mất đi thì không tránh khỏi sự phiền đau khổ não. Chúng sanh vì lăn lộn theo cái tâm hẹp hòi nhỏ mọn, chấp nhạ, chấp nhơn, chấp theo sự vật, chấp theo của cải, theo danh vọng tất cả đều cho là thật mà không biết rằng tất cả đều có đó không đó. Nếu khi được tỉnh ngộ rồi tất nhiên đối với tất cả của cải ta luôn luôn quá rõ cái ngĩa vô thường của nó, cho nên có cũng không lấy làm vui, mà kiêu căng ngạo mạng. Trái lại có mất ta cũng không lấy làm buồn mà sinh ra cái tâm gian tham trộm cắp. Đạt được cái lý vô thường như vậy thì sẽ sống một cuộc đời tự tại yên vui, không bị cái giàu, không bị cái nghèo chi phối. Người giàu bị của cải chi phối, người nghèo thì thiếu ăn thiếu mặc chi phối, làm cho cái tâm luôn luôn bị dằn dặc đau khổ, không tự tại, không giải thoát, không an vui được. Mục đích của cuộc đời là gì? Mục đích của cuộc đời là sống một cuộc đời an vui, chứ không phải là sống một cuộc đời nhiều của cải. Nếu nhiều của cải, không đạt được mục đích, ý nghĩa của đời người.

Đức Phật muốn dạy một bài học lớn cho chúng sanh về ý nghĩa đó, cho nên Ngài đã bỏ tất cả kinh thành, thê tử để xuất gia tu hành, hầu un đúc, tạo nên một sự giác ngộ giải thoát, chứng được cái chân lý của sự vật. Từ đó Ngài đã 45 năm, ngày đi giảng tối về nghỉ, cứ thế cho đến lúc 80 tuổi Ngài nhập Niết-bàn. Cho đến cái giờ phút cuối cùng, Ngài sắp sửa Niết-bàn, thế mà có một người già tới xin gặp Phật cho được. Các hàng đệ tử không cho ông ấy vào gặp, Ngài khuyên các đệ tử để cho ông ta vào. Thế rồi ông ta đi đến đức Phật, Ngài cũng giáo hóa cho, sau này được chứng ngộ, chứng thành đạo quả.

Cuộc đời Đức Phật như vậy, vì một tâm từ bi cứu khổ chúng sanh cho nên Ngài đã bỏ quốc thành thê tử xuất gia, cũng vì cái tâm từ bi cứu vớt chúng sanh cho trong 45 năm, Ngài cũng mang bình bát đi khất thực từ nhà này sang nhà khác và để giáo hóa cho chúng sanh.

Tăng là các vị đệ tử xuất gia của Đức Phật. Phật một mình đi giáo hóa trước tiên là độ cho bậc xuất gia làm đệ tử để phụ lực cho Ngài đi giáo hóa. Sau khi Ngài thuyết pháp tại vườn Lộc-Uyển, độ 5 vị Tỳ-kheo xong, Ngài bảo các ông hãy chia nhau đi khắp nơi để đem cái pháp giải pháp của Ta đến cho tất cả mọi người. Do đó các vị Tăng đó tiếp tay với Phật cho nên mới truyền bá được lời dạy của Phật. Mặc dầu Phật đã Niết-bàn trên 2500 năm mà giáo pháp Ngài hôm nay vẫn còn chính do các vị cao tăng thạc đức đem giáo pháp của Phật truyền bá. Thành các vị xuất gia tu hành chơn chánh đó là người bạn lành của chúng sanh, người bạn lành của mọi người. Thân cận các vị xuất gia tu hành chơn chính thì sẽ thân cận được giáo pháp của Đức Phật, nghe được lời dạy của Đức Phật. Cho nên qui y Phật rồi, qui y pháp rồi thì phải qui y Tăng nữa. Khi đã qui y Phật, Pháp,Tăng như vậy thì sẽ trở thành một người Phật tử, chính thức là con của Phật.

Như vậy các Phật tử đã nghe rõ, qui y Phật là thế nào, qui y Pháp là thế nào, và qui y Tăng là thế nào.

Các Phật tử. (Dạ!) Trước khi muốn qui y Tam bảo, các người phải phát lồ sám hối. Chỉ có pháp sám hối, thân tâm của các người mới được thanh tịnh, các người mới có thể đón nhận giới pháp thanh tịnh của chư Phật. Vậy các người hãy vận hết tâm thành sám hối để dứt trừ tất cả mọi tộ chướng vô thỉ đến nay, làm cho các người trôi lăng mãi trong sáu đường ác, chịu luân hồi quả báo. Vậ các người hãy nói theo tôi:

Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra
Đệ tử thành xin sám hối. (3 lần)

Bây giờ các vị chấp tay thành kinh để nói theo lời tôi hướng dẫ từng câu một để qui y Tam bảo:

1. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.

2. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp.

3. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.

4. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật

5. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp.

6. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.

7. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện 
Suốt đời qui y Phật.

8. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp.

9. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.

10. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.
đấng giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sanh
Thoát vòng đau khổ.

11. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp,
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của Đức Phật.

12. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.
Là các bậc Bồ tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Tu hành theo Phật.

13. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.
đấng giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sanh
Thoát vòng đau khổ.

14. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp,
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của Đức Phật.

15. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng.
Là các bậc Bồ-tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng 
Hành theo Phật.

16. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật.
đấng giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sanh
Thoát vòng đau khổ.

17. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp,
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của Đức Phật.

18. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y tăng
Là các bậc Bồ-tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Tu hành theo Phật.

19. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật rồi,

20. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp rồi,

21. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng rồi,

22. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật rồi,

23. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện 
Suốt đời qui y Pháp rồi,

24. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y tăng rồi, 

25. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Phật rồi,

26. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Pháp rồi,

27. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Suốt đời qui y Tăng rồi,

28. Đệ tử chúng con 
Chí thành phát nguyện
Đã qui y Phật rồi
Đời đời kiếp kiếp 
Không qui y trời thần qủy vật.

29. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Đã qui y Pháp rồi,
Nguyện đời đời kiếp kiếp
Không qui y ngoại đạo tà giáo.

30. Đệ tử chúng con
Chí thành phát nguyện
Đã qui y Tăng rồi
Nguyện đời đời kiếp kiếp
Không qui y thầy tà bạn ác.

*

Nam mô Chứng Minh sư Bồ-tát. (3 lần)
Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trú Tam bảo tam bái. (3lạy)
Hồ quì hiệp chưởng. (quì xuống)

Các Phật tử: - Mô Phật.

Như vậy là các Phật tử đã qui y Tam bảo rồi, chính thức là người con của Đức Phật, từ nay là người con chính thức trong gia đình của Phật, luôn luôn nhớ Tam bảo, Phật Pháp Tăng mình đã qui y suốt đời, chứ không phải qui y trong ngày này, ngày khác, không phải qui y ở tại đây mà ở tại chỗ khác không, một lần qui y Phật là thành đệ tử Phật suốt đời, cũng như cha mẹ mình sinh mình ra tức nhiên là sinh ra suốt đời. Thành một đời chỉ có cha mẹ sinh ra một lần chứ không có nhiều cha mẹ sinh. Khi làm đệ tử đã qui y với Phật cũng chỉ có Tam bảocha mẹ suốt đời của minh, chứ không có nhiều cha mẹ khác. Giữ cho được tam qui như vậy tức là giữ lòng chánh tín đối với Tam bảo, có một lòng tin thẳng thắn, đứng đắn.

Sau khi qui y Đức Phật còn dạy hàng Phật tử tại gia thọ trì 5 điều răn cấm. Năm điều răn cấm này là cơ bản của đời sống đạo đức. Dầu là người tại gia, người xuất gia, người theo Phật, người không theo Phật cũng cần sống có đạo đức. Không sống có đạo đức thì không còn nhân phẩm, không còn là người, cho nên sống đạo đức là một điều cần thiết. Mà đệ tử của Phật sống đạo đức là cơ bản có trong điều răn cấm.

Trước hết là không sát sinh, vì sao Phật chế ra giới nầy? Bởi vì Đức Phật dạy rằng: Ai ai cũng sợ 

Sợ gươm đao ai ai cũng sợ chết, vậy lấy lòng mình suy lòng người chớ giết, chớ bảo giết. Vì tâm từ bi thương yêu, thương cái sự sống của tất cả mọi người mà Phật cái tâm từ bi, không giết hại trước hết là với đồng loại, cố gắng giữ gìn không đem tâm độc ác, mưu mô hung dữ, để mà giết hại mạng sống của kẻ khác. Tội sát sanh là tội lớn hơn bất cứ tội gì khác, bởi tội khác chỉ làm cho người ta đau khổ, chứ tội giết làm cho người ta mất mạng luôn. Do đó điều răn cắm trước trước tiên là cấm sát sinh. Đối với mọi người phải sống cuộc sống hiền hòa, không đem tâm mưu hiểm mong cho họ chết để minh sống. Đó là không sát sinh. Đối với hàng cư sĩ thí một tháng hai ngày chay hay 4,6 ngày... đó cũng là một cách thể hiện cái tâm từ bi không sát sinh.

Với giới không sát sinh, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được.

Thứ hai là không trộm cắp. Trộm cắp là lấy của người khác làm của minh. Ai có của cải cũng mong giữ cho toàn, chứ không ai muốn mất mát. Mình không muốn mất mát thì người khác cũng không muốn mất mát, thế mà đem cái tâm gian tham lấy của người ta là có tội. Nên cần phải giữ cái giới không trộm cắp.

Với giới không trộm cắp, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được.

Thứ ba là không tà dâm. Đới với hàng cư sĩ thì còn có lập gia đinh, nhưng lập gia đình phải theo phép tắc, luật lệ của xứ sở đó, không được trái với luật lệ. Làm trái với luật lệphạm tội tà dâm. Đó là điều cấm kỵ, điều xấu không nên làm, cho nên người Phật tử cố gắng giữ.

Với giới không tà dâm, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được

Thứ tư là không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đâm thọc, không nói vu khống, không nói hung dữ. Cái miệng của minh nói ra rất dễ, nhưng nói cho tử tế, cho hiền lành rất khó. Tục ngữ có câu "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Cũng vì lẽ đó, giới không tu sẽ ác miệng, sẽ nói hung ác, sẽ nói thêu dệt, sẽ nói đâm thọc, sẽ nói vu khống, những lời nói ấy chỉ đem lại sự đau khổ cho người khác. Khi đã đem lại sự đau khổ cho người khác, chính minh cũng sẽ mang lại cái quả báo đau khổ đó, không chạy đi dường nào hết. Cho nên không nói dối,không thêu dệt, đâm thọc, vu khống, hung dữ mà tập nói hòa thuận, thương yêu, dịu ngọt, hiền lành, đứng đắn, đó cũng là một cách tu. Tu cái khẩu nghiệp của minh cho được thanh tịnh.

Với giới không nói dối, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được

Thứ năm là không được say sưa rựơu chè. Xã hội ngày nay bị cái nạn xì ke ma tuý nó làm điên đảo, nó làm tai hại, làm khốn đôn bao nhiêu gia đình. Nếu một người Phật tử sa vào cái cảnh say sưa rượu chè xì ke ma tú thì tư cách, nhân phẩm của minh không còn nữa thì làm sao bình tỉnh nhận ra cái điều lành mà theo, điều dữ mà tránh. Cho nên Đức Phật dạy giới thứ năm là không được say sưa rượu chè. Nếu ở đời, còn vì cái xã giao, cái tập quán, cái lễ nghĩa thì cũng phải hạn chế hết sức, không để cho rượu chè làm điên đảo tâm tư.

Với giới không say sưa rượu chè, các người có giữ được không?

- Mô Phật, giữ được

Đối với năm cấm giới này, các Phật tử hãy cố gắng phát nguyện đối trước Tam bảo để thọ trì để giữ gìn để tập luyện. Tjọ trì giữ được năm điều cấm giới thì sẽ sống một đời sống có đạo đức, có nhân phẩm, tức là sống lợi mình, lợi người, tự gíac giác tha như Đức Phật đã từng dạy. Bấy nhiêu lời các Phật tử hãy gắng ghi nhớ! Y giáo phụng hành(Phật tử đồng thanh nói)

Chí thành đảnh lễ tam bái.(3 lạy)
Đệ tử kính lạy
Đức Phật Thích Ca,
Phật di-đà,
Thập phương chư Phật
Vô thượng Phật pháp
Cùng thánh hiền Tăng, 
Đệ tử lâu đời lâu kiếp, 
Nghiệp chướng nặng nề,
Tham giận kêu căng, si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật,
Biết sự lỗi lầm,
Thành tâm sám hối,
Thề tránh điều dữ,
Nguyện làm việc lành,
Ngửa trông ơn Phật,
Từ bi gia hộ,
Thân không tật bệnh,
Tâm không phiền não;
Hằng ngày an vui tu tập,
Pháp Phật nhiêm mầu
Để mau ra khỏi luân hồi
Minh tâm kiến tánh,
Trí tuệ sánhg suốt,
Thần thông tự tại,
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng;
Cha mẹ, anh em
Thân bằng quyến thuộc,
Cùng tất cả chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.

*

KINH LÒNG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Bồ tát quán tự tại khi đi vào trí tuệ cùng tột sâu thẳm, soi thấy năm uẩn đều không vượt mọi khổ ách.

Này Xá-lợi tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Này Xá-lợi tử, tướng không của các pháp là không sinh không diệt, không sạch, không nhơ, không thêm không bớt. Cho nên trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; không có vô minh cũng không có vô minh hết; cho đến không có già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo, không trí cũng không đắc, vì không sở đắc.

Bồ-tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại; vì kông ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết-bàn.

Chư Phật ba đời nương trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thế nên biết trí tuệ cùng tột là thần chú lớn, là thần chú sáng lớn, là thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh bằng, dứt trừ hết thảy khổ ách, chơn thật không hư, cho nên nói câu thần chí trí tuệ cùng tột; liền nói thần chú rằng: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề sa ba ha.

*

THẦN CHÚ THẤY PHẬT DIỆT TỘI

Li bà li bà đế, cầu ha cầu ha đế,đà la ni đế, ni ha ra đế, tì lê nễ đế, ma ha dà đế, chân lăng càn đế, sa bà ha.(3 lần)

Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
Tự qui y Phập, xin thỉnh nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả
Đệ tửchúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3939)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3105)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7020)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5642)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3954)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3083)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12146)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5133)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3867)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9162)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7438)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27123)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5926)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5640)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6144)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5687)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5495)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7828)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4770)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12148)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21872)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6516)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7470)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6747)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6302)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8573)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6107)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5711)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14254)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20270)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6920)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6852)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6410)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6502)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6030)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7429)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7405)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8550)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6489)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6878)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10504)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19888)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30221)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16220)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19636)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11068)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14362)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7784)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10487)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7941)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant