Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Duy Thức

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6636)
02. Duy Thức

THỨC BIẾN

Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

DUY THỨC

A. Nghĩa chữ Duy Thức

Duy thức là duy cái biết, do cái biết, hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức sở biến).

Muôn sự muôn vật không thể hiện hữu ngoài định lý duyên sanh, nghĩa là chúng chỉ hiện hữu giữa các mối quan hệ, lớp này lớp khác trùng trùng vô tận, một làm duyên cho tất cả, tất cả duy một, tất cả làm duyên cho một, một duy tất cả.

"Do cái này có nên cái kia có,
Do cái này sinh nên cái kia sinh,
Do cái này không nên cái kia không,
Do cái này diệt nên cái kia diệt."

Như thế là duyên khởi, y tha khởi. Trong đó, nếu nói "duy" thì cái nào cũng duy được hết, duy sắc, duy hương, duy vô minh, duy căn, duy trần v.v. Như cổ nhân có câu: "Nhất sắc nhất hương, vô phi trung đạo". Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: "Tùy niệm nhất pháp, giai thị pháp giới" (Bất cứ đưa ra một pháp nào, pháp đó đều là pháp giới muôn pháp).

Thức là một trong hết thảy pháp, nhưng thức có năng lực đặc biệtphân biệt biết được cái khác và tự biết được mình, nó là chủ lực ở ngay trong mỗi chúng sanh. Chính cái biết này làm cho các pháp trong đồng nhất tính duyên khởi, vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên (không trong không ngoài), nổi lên thiên hình vạn trạng, rồi mê muội chạy theo giả tướng thiên hình vạn trạng đó mà đắm trước, tạo nghiệp, buộc ràng theo nó, gây nên khổ đau.

Các pháp khác không có năng lực này, chỉ có thức mới có năng lực này, cho nên chỉ nói duy thức mà không nói duy cái khác.

Lại "Duy có nghĩa là giản biệt, ngăn không có ngoại cảnh; Thức có nghĩa là liễu giải, biểu thị có nội tâm".

Nói Duy thức chính là đưa ra lời khai thị, thức tỉnh người ta hãy tự giác, hãy quán tâm mình, nhìn lại cái năng lực thiên biến vạn hóa ở trong mình để gạn lọc nó, trau dồi nó, sửa chữa nó phải biến hóa như thế nào để chỉ đem lại lợi lạc, chứ đừng gây đau khổ.

Ðến khi đã chuyển được tâm thức thành bốn trí (bốn trí: 1. Thành sở tác trí; 2. Diệu quan sát trí; 3. Bình đẳng tánh trí; 4. Ðại viên cảnh trí), sáng suốt hoàn toàn, lý trí nhất như, sắc tâm bất nhị, không còn lấy sắc làm sắc, lấy tâm làm tâm, được tự tại không còn vướng mắc, cũng không có gì làm cho giao động, sợ hãi thì bấy giờ không cần duy, không cần thức, hay cần duy gì cũng được vô ngại.

Duy thức tiềm ẩn trong lời Phật rải rác ở các Kinh, Bồ-tát Thế Thân dùng lý đó vết thành luận, gọi là Luận Duy thức. Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang sau khi du học Ấn Ðộ, mang về Trung Hoa (602-644), rút ra từ những ý chính của mười vị đại Luận sư như Hộ Pháp, Ðức Huệ, An Huệ v.v., giải về luận 30 bài tụng của ngài và dịch ra bộ luận Thế Thân, rồi tóm lược lại gọi là "Luận Thành Duy Thức".

B. Duy thức theo lời giải của Ðại sư Thái Hư

Chữ Duy thức nguyên chữ Phạn là Vijnàpti-màtratà. Vijnàpti, Trung Hoa dịch âm là Tỳ-nhã-để, dịch nghĩa là Thức. Chữ Màtrata, Trung Hoa dịch âm là Ma-đát-lạt-đa, dịch nghĩa là Duy.

Thức là liễu biệt, nhận biết. Liễu là liễu tri, Biệt là biệt chỉnh cảnh. Tức liễu tri mỗi mỗi cảnh riêng biệt, như nhãn thức liễu tri sắc, nhĩ thức liễu tri thanh v.v.

Thức, nói một cách tổng quát là gồm đủ năm vị tức năm mặt:

1. Thức tự tướng, tức tám thức Tâm vương

2. Thức tương ưng, tức sáu vị Tâm sở.

3. Thức sở biến, tức hai phần Kiến và Tướng.

4. Thức phận vị, tức hai mươi bốn giả pháp Bất tương ưng hành, chúng chỉ là giả tướng sai biệt giữa Sắc và Tâm.

5. Thức thực tánh, tức chơn lý, chơn như thật tánh của bốn thứ trên. Như vậy Thức thật tánh là lý, còn bốn thứ trên. Như vậy Thức thật tánh là lý, còn bốn thứ trên là sự. Năm vị pháp này là bao quát hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu. Chúng đều không lìa thức, đều là biểu hiện của thức, nên gọi là Duy thức.

Mỗi mỗi hữu tình từ vô thỉ vốn có tám thức, sáu vị Tâm sở, các pháp sự lý như vậy. Chúng chỉ hiện hữu được trên thức, ngoài thức ra thì không có hiện hữu nào hết, vì ngoài thức ra thì ta không thể biết có gì cả, nếu ta tưởng tượng có một hiện tượng gì ở ngoài thức, thì nó cũng là thức biến, vì nó là tướng của thức tưởng tượng ra.

Duy có ba nghĩa:

1. Nghĩa giản trì: Giản là giản biệt, kén chọn bỏ đi có tánh phủ định, giá thuyên. Bỏ đi cái gì? Bỏ đi hai chấp ngã và pháp thật có. Trí là giữ lấy, có tính khẳng định, biểu thuyên. Giữ lấy cái gì? Giữ lấy thức tướng Y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Các pháp y tha duyên khởi là tướng của thức. Hai không (ngã không, pháp không) hiển lộ Viên thành thật tánh là tánh của Thức.

2. Nghĩa quyết định: Luận Biện Trung Biên nói: "Thử trung định hữu không, ý bỉ diệt hữu thử', nghĩa là trong thức tướng y tha duyên khởi thuộc tục sự này quyết định có thức tánh. Do hai không hiển lộ thuộc chơn lý kia, vì chơn không lìa tục mà có, ngược lại, trong chân lý hai không kia quyết định có tục sự y tha duyên khởi này, vì tục không thể lìa chơn mà có.

Như vậy "Thức" vừa có nghĩa giá và biểu. "Giá" thì ngăn chặn loại trừ ngã và pháp thật có ở ngoài thức."Biểu" thì biểu thị thức tướng y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Sự và lý, tục và chơn, hai mặt quyết định gắn liền với nhau của thức.

3. Nghĩa hiển thắng: Thắng là hơn, là thù thắng, nhằm chỉ cho thức Tâm vương hơn là cho thức Tâm sở mỗi khi nói Duy thức. Khi nói Duy thức là chú ý nói Duy thức Tâm vương.

Trong ba nghĩa trên, trong Duy thức thường dùng nghĩa thứ nhất.

C. Duy thức tam thập tụng bản chữ Hán (Ðại tạng; Chánh 31:1586)

[xin xem theo sách, không đăng trong ấn bản Internet này]

D. Dịch nghĩa (theo thể kệ 5 chữ)

1. Do giả nói ngã pháp,
Có tướng ngã pháp chuyển,
Chúng nương thức biến hiện,
Thức biến hiện có ba.

2. Là Dị thục, Tư lương,

Và thức Liễu biệt cảnh,
Ðầu, thức A-lai-da,
Dị thục, Nhất thiết chủng.

3. Không thể biết chấp thọ,

Xứ, liễu, tương ưng xúc,
Tác ý, thọ, tưởng, tư,
Và chỉ có xả thọ.

4. Tánh vô phú vô ký,

Xúc, thảy cũng như thế,
Hằng chuyển như dòng nước.
A-la-hán, bỏ hết.

5. Thức biến hiện thứ hai,

Gọi là thức Mạt-na.
Nương kia chuyển, duyên kia,
Tư lương làm tánh tướng.

6. Tương ưng bốn phiền não,

ngã si, ngã kiến,
ngã mạn, ngã ái,
Cùng tâm sở Biến hành.

7. Tánh hữu phú vô ký,

Sanh theo A-lại-da.
Chứng La-hán, Diệt định,
Xuất thế đạo, không còn.

8. Thức biến hiện thứ ba,

Sai biệt có sáu thứ,
Tánh tướngbiệt cảnh,
Thiện, bất thiện, vô ký.

9. Cùng tâm sở Biến hành,

Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy phiền não, Bất định.
Ðều tương ưng ba Thọ

10. Trước là Biến hành: Xúc

Tiếp là Biệt cảnh: Dục,
Thắng giải, niệm, định, tụê.
Cảnh sở duyên không đồng.

11. Thiện là tín, tàm, quý,

Không tham, không sân, si,
Siêng, an, không phóng dật,
Hành xả và không hại.

12. Phiền não là tham, sân,

Si, mạn, nghi, ác kiến.
Tùy phiền não là phẫn,
Hận, phú, não, tật, xan,

13. Dối, nịnh và hại, kiêu,

Không hổ và không thẹn
Trạo cử với hôn trầm,
Không tin cùng giải đãi,

14. Phóng dậtthất niệm,

Tán loạn, không chánh tri,
Bất định là hối miên.
Tầm, tứ hai đều hai.

15. Nương dựa căn bản thức,

Năm thức theo duyên hiện
Ðồng thời khởi, hoặc không,
Như sóng mòi nương nước.

16. Ý thức thưởng hiện khởi

Trừ sanh trời Vô tướng
Và hai định vô tâm
Khi ngủ say, chết ngất.

17. Các thức ấy chuyển biến,

Phân biệt, bị phân biệt,
Do kia, đây đều không,
Nên hết thảy Duy thức.

18. Do thức Nhất thiết chủng,

Biến như vậy như vậy,
năng lực triển chuyển,
Kia kia, phân biệt sanh.

19. Do tập khí các nghiệp,

Cùng tập khí hai thủ,
Thân Dị thục trước hết
Lại sanh Dị thục khác.

20. Do biến kể nọ kia,

Biến kế chủng chủng vật,
Biến kế sở chấp này,
Tự tánh toàn không có.

21. Tự tánh Y tha khởi.

Do duyên phân biệt sanh.
Viên thành thật nơi đó,
Thường xa lìa biến kế.

22. Nên nó cùng Y tha,

Chẳng khác chẳng không khác.
Như tánh vô thường thảy,
Thấy đây, mới thấy kia.

23. Chính nương ba tánh này,

Lập ba vô tánh kia.
Nên Phật "mật ý" nói:
"Hết thảy pháp không tánh".

24. Trước là "Tướng không tánh",

Kế, "Không tự nhiên tánh".
Sau, do lìa tánh trước,
Là tánh chấp ngã pháp.

25. Ðây, thắng nghĩa các pháp,

Cũng tức là chơn như,
Vì thường như tánh nó,
Tức thực tánh Duy thức.

26. Cho đến chưa khởi thức.

Cầu trụ tánh Duy thức.
Ðối hai thủ tùy miên,
Còn chưa thể phục diệt.

27. Hiện tiền lập chút vật,

Cho là tánh Duy thức.
Vì còn có sở đắc,
Chưa thực trụ Duy thức.

28. Khi đối cảnh sở duyên,

Trí không sở đắc gì,
Bấy giờ trụ Duy thức,
Do lìa tướng hai thủ.

29. Không đắc, chẳng nghĩ nghì

Là trí xuất thế gian.
Vì bỏ hai thô trọng,
Chứng đắc hai chuyển y.

30. Ðây, tức giới vô lậu,

Chẳng nghĩ nghì, thiện, thưởng.
An lạc, thân giải thoát,
Ðại Mâu-ni pháp thân.

Dịch theo văn xuôi

1. Do giả nói ngã nói pháp
Nên có các tướng ngã pháp chuyển biến hiện ra.
Ngã pháp ấy đều nương thức biến hiện;
Thức biến hiện ấy có ba loại.

2. Là thức Dị thục, Tư lươngLiễu biệt cảnh

Thức biến hiện đầu có ba tên là A-lại-da, Dị thục, và Nhất thiết chủng.
Không thể biết đối tượng của nó, là căn thân và chủng tử mà nó chấp thủ làm tự thể, sanh ra cảm thụ (vì quá vi tế).

3. Không thể biết nơi chốn (xứ, khí thế giới - vì quá rộng lớn) và năng lực nhận biết (liễu) của nó.

Nó cùng đi với Tâm sở xúc,
Tác ý, thọ, tưởng, tư.
Riêng thọ thì chỉ là Xả thọ.

4. Tánh nó là vô phú, vô ký,

Tâm sở xúc v.v.tánh cũng như vậy
hằng thườngchuyển biến như dòng nước.
Chứng quả vị A-la-hán thì thức A-lại-da không còn

5. Thức biến hiện thứ hai, gọi là Mạt-na.

Nó hiện khởi dựa vào A-lại-da và nhận lấy A-lại-da làm đối tượng chấp ngã.
Thế tánh và hành tướng của nó là tư duy, lượng định.

6. Thường khởi cùng với nó có bốn phiền não:

ngã si, ngã kiến,
Ngã mạnngã ái.
Cùng các Tâm sở xúc, v.v.

7. Tánh nó là hữu phú, vô ký,

Nó bị ràng buộc sanh vào các cõi theo A-lại-da
Khi chứng A-la-hán, vào định diệt tận,
Khi trí xuất thế, đạo phát khởi
Thức Mạt-na không còn.

8. Thức biến hiện thứ ba

Sai biệt có sáu thứ.
Thể tánhhành tướng của nó là nhận biết đối tượng.
Nó có đủ ba tánh thiện, bất thiện, vô ký.

9. Cùng đi với nnó có các Tâm sở biến hành

Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy phiền não, bất định
Và ba thọ: khổ, lạc, xả.

10. Trước hết, tâm sở biến hành là xúc,

Rồi đến tâm sở biệt cảnh là dục,
Thắng giải, niệm, định, và tuệ
Cảnh sở duyên với chúng (tâm sở biệt) không đồng nhau.

11. Tâm sở thiện là tàm, quý

Không tham, không sân, không si.
Siêng năng, khinh an, không phóng dật
Hành xảbất hại.

12. Tâm sở phiền não là tham,

sân, si, mạn, nghi, ác kiến
Tùy phiền não là phẫn
Hận, phú, não, tật, xan.

13. Cuống, siểm, hại, kiêu,

Không hổ và không thẹn,
Trạo cử với hôn trầm,
Không tínhgiải đãi.

14. Phóng dậtthất niệm,

Tán loạn, không chánh tri.
Tâm sở bất định là hối, miên, tầm, tứ.
Cả hai loại hối miên và tầm tứ đều có hai tánh tịnh và nhiễm.

15. Nương tựa thức căn bản thứ tám,

Năm thức hiện khởi khi có đủ duyên.
Hoặc khởi đồng thời, hoặc không đồng thời,
Như sóng nương nước.

16. Ý thức thì thường hiện khởi,

Trừ khi sanh vào cõi trời Vô tưởng,
và hai định vô tâm (vô tưởng địnhdiệt tận định)
Cũng như khi ngủ say và khi chết ngất.

17. Các thức ấy chuyển biến.

Thành năng phân biệt và cảnh của sự phân biệt ấy.
Do vậy mà tất cả pháp đều không. (*)
Nên nói hết thảy pháp Duy thức.

(*) Không có tự tính - theo Madhyanta- vibhaga, Biện trung biện luận, của Vô Trước.

18. Vì chính "thức" vốn hàm chứa hết thảy chủng từ.
Biến hiện ra như thế, như thế.
năng lực triển chuyển hỗ tương.
Nên có các sự phân biệt của tám thức và Tâm sở hiện hành.

19. Do tập khí các nghiệp.

Cùng với tập khí của hai thủ (năng thủ, sở thủ, hay ngã chấp thủ, danh ngôn thủ).
Thân Dị thục trước chết rồi.
Lại sanh thân Dị thục khác.

20. Do tâm so đo vọng chấp cùng khắp nọ kia.

Nên vọng chấp so đo cùng khắp các pháp (biến kế chấp)
Cái so đo chấp thủ cùng khắp đó.
Không có tự tánh của chính nó.

21. Tự tánhY tha khởi.

Do thức phân biệt và các duyên mà có.
Tánh Viên thành (là thật tại tối hậu) là tánh Y tha.
Khi Y tha rời khỏi hẳn tánh biến kế trước đó.

22. Nên tánh Viên với tánh Y tha.

Chẳng phải khác, chẳng phải không khác nhau.
Như tánh vô thường, vô ngã đối với các pháp vô thường vô ngã.
Nếu không thấy tánh Viên thành thì cũng không thấy tánh Y tha.

23. Chính nương ba tánh này.

Lập ra ba vô tánh kia.
Nên Phật mật ý nói.
Hết thảy pháp không tự tánh.

24. Tánh Biến kếtướng khôngtự tánh.

Tánh Y tha là không phải tánh tự nhiên sanh.
Tánh Viên thành là tánh y tha lìa xa tánh biến kế chấp ngã pháp trước đó.

25. Ðó là nghĩa tối thắng của các pháp.

Cũng tức là Chơn như.
Vì thường như tánh nó
Cũng tức là thật tánh Duy thức.

26. Thậm chí khi thức (an trú Duy thức), tánh chưa khởi lên.

Một lòng chuyên cầu an trú Duy thức tánh.
Ðối với hai tập khí chấp thủ ngã pháp.
Vẫn chưa thể dẹp trừ.

27. Nếu giờ cho Duy thức tánh là bất cứ gì.

Thì đó không phải là Duy thức tánh.
Vì còn có cái để thủ đắc.
Nên chưa thật an trú tánh Duy thức.
28. Khi đối cảnh sở duyên.
Trí không sở đắc gì.
Bây giờ thật an trú tánh Duy thức.
xa lìa tướng hai thủ.
29. Trí tuệ vô đắc thì không thể nghĩ bàn.
Nó là trí tuệ xuất thế gian (hay thánh trí).
Do lìa bỏ hai chướng ngại thô trọng là phiền nãosở tri.
Liền chứng đắc hai quả (nương nơi A-lại-đa thức) là Niết-bàn và Bồ-đề

30. Hai quả chuyển y này tức tâm giới vô lậu.

Không thể nghĩ bàn, là thiện, là thường
an lạc, là thân giải thoát.
pháp thân đại tịch tịnh.

*

Trong 30 bài tụng này, 24 bài đầu là nói rõ Tướng Duy thức. Bài thứ 25, nói rõ Tánh Duy thức. Năm bài sau chót nói năm hạnh vị tu chứng.

Trong 24 bài đầu, một bài rưỡi đầu lược biện Tướng Duy thức; hai mươi hai bài rưỡi tiếp theo rộng biện Tướng Duy thức.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28089)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6642)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8727)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9228)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15231)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8167)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8607)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16595)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26688)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15487)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22358)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19278)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18179)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16057)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25459)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12796)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37747)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19916)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10634)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 9952)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10485)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10293)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 10964)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15069)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10786)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19531)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10678)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11144)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10043)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10467)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11461)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10811)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11311)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12047)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 10954)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17596)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15040)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15529)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10907)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12002)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 10970)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21589)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12008)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9114)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20082)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17109)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 9994)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant