VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
ÐẠO ÐỨC VÀ XÃ HỘI
Một
số nguyên tắc đạo lý cần thiết cho nhà chính trị như thế nào thì cũng cần thiết
cho nhà tu hành tôn giáo như thế.
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma.
Hôm
nay xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề đạo đức trong đời sống xã hội;
tức là cái gì cấu thành điều thiện, cái gì được xem như một hành vi lương
thiện. Trước tiên ta cần phân biệt ra hai thế giá đạo đức mà theo tôi, cái thứ
nhất có quan hệ mật thiết với tôn giáo, tâm linh còn cái kia thì không. Một vài
tiêu chuẩn luân lý trong đó có công bình và lương thiện được coi như gắn bó với
đời sống tâm linh, tuy nhiên một cách tổng quát, tôi hoàn toàn tin tưởng vào
giá trị chân thực của một số nguyên tắc đạo lý được áp đặt nhằm tạo nên phúc
lợi cho chính chúng ta cũng như cho tha nhân.
Khi
ta nói rằng một hành động là vô luân hay sai trái cũng có nghĩa là nó gây ra
những tác hại đối với kẻ khác. Chúng ta cũng cần phải biết phân biệt giữa hậu
quả tức thời, trước mắt của một hành động và những hậu quả cơ bản, lâu
dài của nó. Một hành động có thể được xem như mang lại lợi ích trong thời điểm
này nhưng về lâu về dài có thể biến thành những hệ quả tiêu cực. Cũng thế, có
những hành động thoạt tiên gây ra những khó khăn, nhưng trải qua một thời gian
dài lại mang đến những kết quả hoàn toàn tích cực. Cho nên trong bất cứ trường
hợp nào, vấn đề chính là hãy nhìn vào hệ quả cơ bản của nó.
Thế
cho nên trên quan điểm này chúng ta sẽ nói về đạo đức hay luân lý -ngay cảđối
chiếu với cuộc sống súc vật; nói một cách khác, làm thế nào mà chúng mang lại
phúc lợi cho đồng loại. Có những loại thú vật sống thành từng bầy đoàn đã biểu
lộ những dấu hiệu của lòng vị tha, dĩ nhiên là có phần hạn chế, tuy nhiên
tất cả đâu có gì khác nhau nếu ta nhìn trên khía cạnh vị tha là sự quan tâm đến
những kẻ chung quanh mình. Trong số những hành động của thú vật mà ta có thể
quan sát được -chúng không cần biết đến luật pháp, tôn giáo hay hiến pháp- ta
có thể phân biệt ra được cái nào tốt , cái nào xấu. Nếu có một thứ luân lý giữa
thú vật, chúng cũng không cần phải quan tâm rằng chúng có tín ngưỡng hay
không, lại càng có thêm lý do để chúng hiện hữu giữa con người.
Một hành động trên nguyên tắc được xem là tích cực hay tiêu cực, lợi lạc
hay tác hại đều tùy thuộc vào ý hướng thúc đẩy ở đàng sau. Một hành động thoạt
xem như thô lỗ hay cưỡng chế có thể coi là đúng đắn nếu được thúc đẩy bởi động
cơ vô cùng sâu sắc, đáng tán dương cũng như nó mang lại phúc lợi cho kẻ
khác. Ngược lại, đôi khi có những ý hướng , mục tiêu vô cùng gian trá qủy quyệt
lại được che dấu bằng hành động bề ngoài thoạt trông có vẻ rất cao thượng. Ðối
với tôi, một hành động được coi là thiện nếu được thúc đẩy bởi lòng vị tha, bởi
ý hướng khát khao muốn làm điều tốt cho kẻ khác, trong khi đó một hành động được
gọi là ác nếu được thúc đẩy bởi ác tâm, ý hướng muốn gây tác hại cho tha nhân.
Trong chiều hướng này ta có thể thiết định được một chuỗi nguyên tắc đạo lý mà
không cần phải dựa vào các khái niệm tôn giáo hay tín ngưỡng. Hơn thế nữa, súc
vật thường rất nhạy cảm trước thái độ của chúng ta: ví dụ như ta tiến đến một
con chó với những ý xấu được che dấu, nó sẽ nhận ra và cảm được chuyện đó.
Ngược lại nếu ta đến với y trong một tâm trạng cởi mở, yêu thương, trìu mến, nó
cũng cảm thấy được và bởi vì nó biết rằng ta không lừa dối nó, nó sẽ rất
hạnh phúc để được thấy ta. Thế nên, trong mối tương quan, ngay cả súc vật cũng
yêu chuộng sự thành thật và đau đớn trước những dối trá.
Tôi
tin chắc rằng trong thâm tâm của mỗi người đều có khuynh hướng tự nhiên là yêu chuộng
sự ngay thẳng thành thật và nhân ái, bởi vì mỗi chúng sanh đều khát khao hạnh
phúc và ý hướng muốn thoát khỏi khổ đau. Và hơn thế nữa, mỗi cá nhân đều có
quyền được đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc và chấm dứt khổ đau. Ðây là một
quyền lợi bình đẳng của con người. Tôi thường hay phát biểu nhận định căn bản
này như sau: Ý nghĩa, mục tiêu của đời sống con người là vươn tới thịnh vượng
và hạnh phúc. Có thể có người không đồng ý với quan điểm đó, tuy nhiên đối với
tôi có rất nhiều lý do để tin tưởng rằng điều này là đúng.
Quả thực, chúng ta hoàn toàn không biết chắc những gì sẽ xảy ra trong
tương lai, con người vẫn sống với niềm hy vọng rằng mọi chuyện đều sẽ xảy ra
tốt đẹp cho họ; họ nhìn về tương lai với sự mong chờ như thế. Một ngày nào đó
khi một người đánh mất đi niềm hy vọng, nếu không tự vẫn, họ cũng sẽ rơi
vào trạng thái hoàn toàn tuyệt vọng và cuộc sống của họ sẽ tàn lụi. Không thể
nào hoàn tất được đời mình khi chúng ta sống trong tâm trạng hoàn toàn chán
nản. Tuy nhiên nếu chúng ta luôn giữ cho niềm hy vọng ở tương lai không bao giờ
thui chột, chúng ta sẽ có khả năng vượt qua mọi nỗi khó khăn để sống. Vì lẽ đó,
tôi luôn nghĩ rằng mục đích của đời sống con người là tìm kiếm hạnh phúc.
Tôi
tin chắc rằng hạnh phúc tinh thần luôn quan trọng hơn khoái lạc thể xác. Cái gì
đã làm cho tinh thần ta hạnh phúc hay đau khổ? Tất cả đều dựa trên những mối
liên hệ của ta với tha nhân. Nếu mọi người chung quanh quan tâm ưu ái đến ta,
đối xử tốt với ta cũng như cho ta biết những thiện ý của họ, tâm hồn ta như được
bồi dưỡng và cảm thấy hân hoan vui vẻ. Ngược lại, nếu tha nhân đối xử với ta
một cách tệ bạc, ác độc, chúng ta sẽ vô cùng đau đớn. Trong sự săn sóc nuông
chiều và thương mến của kẻ khác tâm hồn ta cảm thấy thoải mái và tự động dẫn
đến sự thư giản thể xác. Tâm hồn ta càng hạnh phúc bao nhiêu, thể xác ta cũng
sẽ hưởng phúc lợi lớn lao như thế. Thế cho nên tôi luôn tin rằng nhân ái,
thương yêu và trìu mến là những thái độ tình cảm rất quý giá, quan trọng trong
đời sống con người.
Có
rất nhiều nghề nghiệp khác nhau trong môi trường sinh hoạt của nhân loại -ví
dụnhư những người hoạt động trong lãnh vực giáo dục, luật pháp, thương mại,
chính trị- đều có thể được đánh giá là hữu ích cho nhân sinh căn cứ vào thái độ
và ý hướng được biểu lộ qua những thành tựu của họ. Không cần biết ta sinh hoạt
trong ngành nghề nào, nếu ta có ý hướng cống biến đời mình cho lợi ích của kẻ
khác, cung cách cư xử của ta sẽ có cơ may trở nên hữu ích; trong khi đó có
những lãnh vực hoạt động thường được đánh giá là tốt, như tu hành chẳng hạn,
trong thực tế lại có thể gây nên những điều tệ hại hơn là tốt lành, nếu động cơ
được thúc đẩy không phải là nỗi khát khao được giúp đỡ đồng loại. Cho nên ngay
cả sự can thiệp quân sự giới hạn mà động cơ thúc đẩy cực kỳ xác thực và vị tha,
về lâu về dài có thể được minh chứng là có tính cách xây dựng.
Chúng
ta đang sống trong một xã hội tân tiến, ngay trung tâm của những thành tựu vượt
bực của nền khoa học kỹ thuật và những tiến bộ vật chất đáng kể, ta đang có
nguy cơ đánh mất những giá trị của con người. Bởi vì đời sống của chúng ta đang
bị máy móc hóa và thiếu quân bình, tại sở làm cũng như gia đình, bất cứ chuyện
gì cũng máy móc (dĩ nhiên là thiếu nhân tính), những phẩm chất của con người đã
và đang mất đi phần nào tính cách quan trọng. Quan niệm cho rằng giàu có tự
nhiên sẽ mang đến thỏa mãn và hạnh phúc nay đang trở nên phổ biến. Tuy nhiên
nếu chúng ta đem so sánh niềm hạnh phúc của một con người đang sống trong cảnh
nghèo hèn nhưng giữa một khung cảnh đầy tình người, tràn ngập thương yêu và nhân
ái với một người khác tuy cực kỳ giàu có nhưng phải sống trong một bầu khí khó
khăn bực bội, bị vây bủa bởi những khuôn mặt thù nghịch, thiếu thân thiện, một
điều hiển nhiên ai cũng thấy rằng người thứ nhất là kẻ có hạnh phúc hơn.
Cho
dù nhìn trên bình diện tính tình, tâm trạng, hoặc lối sống, người ta thấy rằng
trẻ con được nuôi dưỡng trong một bầu khí gia đình hoà thuận, có giáo dục
thường thành công hơn trong cuộc đời hơn là những đứa trẻ trưởng thành trong
một môi trường khó khăn, khắc nghiệt thiếu vắng tình thương yêu, trìu mến.
Thân
xác chúng ta không phải là một sản phẩm của máy móc; cho nên nó hoạt động và
phát triển khác biệt. Những tiện nghi vật chất bao quanh chúng ta có thể là
những nguyên nhân và điều kiện tạo nên những thoải mái thể xác, tuy nhiên vì
thân xác ta không phải là một bộ máy, tất cả những điều đó vẫn chưa đủ. Những
yếu tố mang lại hạnh phúc phải được vun trồng từ bên trong của mỗi chúng ta.
Thật là một lầm lẫn lớn lao nếu tin rằng chỉ cần những điều kiện vật chất là đủ
để mang lại hạnh phúc; những nguyên nhân thực sự thật ra phải được phát
triển từ nội tâm.
Ðó
là lý do tại sao tôi luôn tin rằng bản chất đích thực, phẩm chất nguyên thủy
của con người bao gồm lòng thương yêu, và trìu mến. Thế nên khi chúng ta
bày tỏ lòng thương yêu, vị tha của mình, chúng ta không thể làm gì khác hơn
ngoại trừ cảm thấy thỏa mãn bởi vì chúng ta đang hành động phù hợp với thiên
lương của mình. Nếu chúng ta làm điều trái ngược, tức là chúng ta đã phản lại
bản tánh căn bản của mình và điều này sẽ làm cho ta bị tổn thương. Cho dù bản
tánh căn bản của chúng ta là tốt đẹp, trong thực tế sự giận dữ, ganh tị, độc ác
vẫn là những mặt trái trong nhân cách con người. Kinh qua lịch sử nhân loại
người ta thấy không thiếu gì những vụ gây hấn và những kẻ thích thú khi làm
những điều tàn ác được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này đã
khiến nhiều người cho rằng bản tánh của con người là xấu ác và bạo động -một
quan điểm không phải hoàn toàn là không có cơ sở. Ai cũng biết rằng, nếu
một người cứ phải sống trong giận dữ hai mươi bốn giờ trong ngày thì chắc là
khó có thểø sống lâu, trong khi đó một người mà tinh thần luôn luôn đầy ắp
thương yêu sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, êm đềm lâu dài. Mặc dù tham dục và
độc ác là một phần của tâm hồn con người, tôi vẫn luôn tin rằng những lực chủ
động trong ta vẫn là tình thương yêu và nhân ái.
Ðiều
quan trọng trước tiên là chúng ta phải hiểu ý nghĩa của hai tiếng thương yêu.
Thương yêu là nỗi khát khao trông thấy hạnh phúc được mang lại cho những ai bị
tước đoạt. Ta trải lòng từ ra với những kẻ đang khổ đau, và mong cầu cho họ xa
lìa mọi khổ nạn. Chúng ta thường có thói quen trìu mến yêu thương những ai thân
cận với ta nhất, kế đến là bạn bè, chứ chẳng hề quan tâm đến kẻ lạ, và đối với
những kẻ làm hại ta thì chẳng bao giờ. Ðiều này cho thấy khi tình yêu thương
chỉ hướng đến những người gần gũi nhất với ta, nó đã bị nhuộm màu sâu đậm bởi
chấp trước và tham ái và đó không phải là tình yêu thương trọn vẹn. Tình thương
yêu đích thực phải được san sẻ đồng đều đến mọi người, không hạn định vào những
người thân, bởi vì nó được xây dựng trên căn bản nhận thức rằng tất cả mọi
người, giống như chúng ta, đều mong cầu tìm kiếm hạnh phúc và chạy trốn khổ
đau. Hơn thế nữa, nó còn phải dành cho mọi con người quyền được tìm kiếm hạnh
phúc và giải phóng khỏi đau khổ. Như thế, tình thương yêu đích thực mang tính
chất vô tư, nó bao gồm tất cả mọi người không phân biệt, ngay cả đối với kẻ thù
ta.
Ðối
với từ bi, ta không nên lầm lẫn nó với lòng thương hại vốn bị đồng hoá với sự
khinh rẻ và cho mình cái ấn tượng rằng mình đang ở một vị thế cao hơn những
người đang đau khổ. Lòng từ bi thật sự hàm chứa nguyện vọng chấm dứt mọi
khổ đau cho tha nhân và một ý thức trách nhiệm đối với những người đang đau
khổ. Ý thức trách nhiệm này có nghĩa là chúng ta muốn dấn thân vào việc tìm
kiếm những phương thức nhằm xoa dịu những ai đang gặp phải khó khăn. Tình
yêu thương thật sự đối với tha nhân sẽ được chuyển hóa thành lòng can đảm và
sức mạnh. Một khi can đảm lớn mạnh, sự sợ hãi tan biến; đó là lý do tại sao
lòng nhân ái và tình huynh đệ được coi như là cỗi nguồn của sức mạnh nội tâm.
Càng phát triển lòng thương yêu đối với tha nhân bao nhiêu, chúng ta càng cảm
thấy tự tin vào mình bấy nhiêu; càng can đảm bao nhiêu chúng ta sẽ càng cảm
thấy thư giản và an lạc bấy nhiêu.
Ðối
nghịch với thương yêu là ác tâm, nguồn gốc của mọi tội lỗi. Trên căn bản này,
chúng ta định nghĩa thế nào là kẻ thù? Một cách tổng quát, chúng ta xem kẻ thù
là những ai có ý làm tổn hại ta, những người thân, tài sản của ta; tức là những
kẻ chống phá hoặc hăm dọa trực tiếp đến những nhân tố tạo nên sự mãn nguyện và
hạnh phúc của ta . Khi kẻ thù nhắm đánh vào tài sản, bạn bè hoặc quyến thuộc
của ta, họ có vẻ như đang tấn công vào chính cỗi nguồn tạo nên hạnh phúc của
ta. Tuy nhiên rất khó mà khẳng định rằng bạn bè và tài sản của ta là nguồn gốc
thật sự của hạnh phúc, bởi vì rốt lại yếu tố chủ động vẫn là sự an bình nội
tâm; chính sự bình an tâm hồn này làm cho chúng ta thư giản và hạnh phúc, nếu
mất nó chúng ta sẽ cảm thấy cuộc sống trở nên vô cùng khốn khổ.
Kẻ
thù bên ngoài không có đủ khả năng để tiêu diệt hạnh phúc của chúng ta. Thực ra
sự giận dữ, hận thù, ác tâm -nếu chúng ta nhận ra chúng- mới chính là mầm mống
huỷ diệt sự an bình nội tâm và do đó làm tiêu tan niềm hạnh phúc của chúng ta.
Chúng mới chính là kẻ thù đích thực. Những ai đạt được một mức độ an bình nội
tâm cao sẽ vẫn giữ được tâm trạng thư giãn, an lạc cho dù phải đối đầu với
những tình huống cực kỳ khó khăn, khi mà hạnh phúc đang ở trong nguy cơ bị
triệt phá toàn diện. Tuy nhiêm một người mà tâm hồn luôn bị xâu xé bởi những
ngọn lửa độc hại của ác tâm, hận thù, ganh tỵ sẽ chẳng thu hoạch được gì cho
đời mình ngoại trừ khốn khổ cho dù họ được ở trong những tình huống tốt đẹp
nhất.
Như
thế, ta thấy rằng kẻ thù đích thực của hạnh phúc hiện hữu ở trong lòng mỗi con
người; ta đừng chạy đi tìm kiếm một kẻ thù thực sự nào ở bên ngoài. Chìa khóa
của hạnh phúc chân thật nằm ở trong tay chúng ta. Nếu hiểu được như thế ta sẽ
khám phá ra những giá trị thiết yếu của lòng nhân ái, tình huynh đệ và vị tha.
Càng nhìn rõ được những phúc lợi mà những giá trị này mang lại bao nhiêu, ta sẽ
càng tìm mọi cách để loại bỏ các giá trị đối nghịch với chúng; và như vậy ta đã
có thể chuyển hoá được nội tâm mình.
Ðể
trở lại chủ điểm của vấn đề thảo luận, tôi có thể nói rằng một hành động mang
phúc lợi được phát khởi từ lòng vị tha, sẽ luôn là một hành động công chính,
tốt lành. Ðiều này mang lại cho tôi niềm tin tưởng rằng tất cả các tôn giáo
chính của nhân loại, với tất cả thiện tâm của mình, đều chia xẻ chung một
mục tiêu là củng cố các giá trị nhân bản, được triển khai bằng các phương tiện
khác nhau tùy theo triết lý và đường lối tu tập riêng của mình. Thế cho nên
ngay chính từ cốt lõi của các tôn giáo độc thần như Cơ đốc, Do thái giáo, hay
Hồi giáo đều được đặt căn bản trên đức tin vào một Ðấng Sáng Tạo. Từ đó người
ta học cách yêu Thượng Ðế đồng thời cùng với tình yêu tha nhân, tuy nhiên tôi
tin chắc rằng mục tiêu chung của những truyền thống tâm linh này đều là học tập
cách yêu thương đồng loại. Ðiều này có thể được giải thích là, bởi vì Thượng Ðế
đã dạy ta như thế; thế cho nên càng tin kính Thượng Ðế bao nhiêu, ta càng
phải vâng theo những lời giáo huấn đó, đặc biệt là trên lãnh vực liên quan đến
tình huynh đệ giữa con người. Mục tiêu tối hậu của tôn giáo vì thế chính là
khuyến khích con người yêu thương lẫn nhau.
Cơ Ðốc giáo không hề chống lại ý niệm tái sanh luân hồi, tức là khái niệm về
những đời sống tiếp nối nhau. Tôi đã có cơ hội đàm đạo vấn đề này với một người
bạn Cơ Ðốc và trình bày với ông ta rằng không có gì khác biệt giữa ý niệm tái
sanh luân hồi và thần học Cơ Ðốc. Ông ta đã trã lời rằng những vấn nạn gây nên
bởi niềm tin vào tái sanh luân hồi ở chỗ là nó tạo nên một khoảng cách nhất
định giữa tín đồ và Thượng Ðế, thế nhưng nếu con người tin tưởng và chấp nhận
rằng đời sống của mình là do Thượng Ðế tạo dựng và sự hiện hữu đó là duy nhất,
đồng thời người ta cũng cần có một yếu tố mới trong mối liên hệ sâu xa và khẩn
thiết lớn lao giữa Thượng Ðế và con người. Tôi nhận thấy rằng những ý
tưởng của ông ta phản ánh một luận cứ nhất định và lý giải đó rất có cơ sở.
Trong giáo lý Cơ Ðốc, điều này giải thích sự cần thiết của tình yêu thương
huynh đệ giữa con người và lòng tha thứ hỷ xả.
Bây
giờ chúng ta hãy nhìn vào các tôn giáo không đặt niềm tin vào một đấng Thượng
Ðế sáng tạo như Phật giáo hay đạo Jain, quan niệm rằng mỗi cá nhân tự làm chủ
vận mệnh của mình: mỗi người tự mình tạo ra các nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc.
Trách nhiệm là ở chúng ta mà không ai khác. Nếu chúng ta gây nên những tác hại
cho kẻ khác, chúng ta sẽ gánh chịu đau khổ; nếu chúng ta phụng sự tha nhân,
chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc. Dựa trên căn bản của luật nhân quả mà các tín
đồ của các truyền thống tôn giáo này giải thích sự cần thiết của sự xử thế với
lòng nhân ái.
Như
vậy mối quan hệ đúng đắn giữa đạo đức và tôn giáo là gì? Những người đang dấn
bước trên con đường tâm linh xem đạo đức là nền tảng căn bản mà họ vươn tới,
thế nên họ tránh không muốn gây khổ đau cho người khác mà ngược lại, đối xử với
mọi người bằng lòng nhân ái. Tùy theo tín ngưỡng của mỗi người, họ diễn giải ý
niệm đạo đức một cách khác nhau, chẳng hạn như xem đó là thánh ý của Chúa hay
là hồng ân của Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Căn cứ vào niềm tin tôn giáo của
mình, chúng ta cho rằng nếu tuân thủ theo một số nguyên tắc đạo đức nào đó ta
sẽ được đi lên thiên đàng hay thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Tuy
nhiên, từ cội rễ của những niềm tin này, tôi tin chắc rằng có một chuổi nguyên
tắc đạo lý phổ quát mà trong thực tế đã không cần phải dựa vào bất cứ tôn giáo
tín ngưỡng nào mà vẫn có thể được vun đắp, phát triển trong nội dung giáo lý
của bất cứ truyền thống nào mà ta đã lựa chọn. Nếu chúng ta chấp nhận và thực
hiện nền luân lý phổ quát này, vốn đã được mọi người công nhận, củng cố và cải thiện
nó thông qua niềm tin tôn giáo, việc tu tập tâm linh cũng như những sinh hoạt
thế gian của chúng ta sẽ hòa nhịp với nguyên tắc đạo đức này. Ngược lại, nếu
chúng ta hành trì tu tập tôn giáo một cách tinh chuyên thế nhưng chẳng bao giờ
chịu sống một đời sống phạm hạnh đạo đức, sự tu tập đó cũng chẳng mang lại điều
gì tốt đẹp. Thế cho nên đối với tôi, hình như các tôn giáo lớn đã đồng ý với
nhau về tính cách quan trọng của một nền đạo lý căn bản.
Vấn
đề đặt ra là sự đa dạng của các truyền thống tâm linh có thực sự cần thiết hay
không nếu tất cả các tôn giáo đều giống nhau ở điểm căn bản. Tại sao lại
có quá nhiều các triết thuyết và quan điểm tôn giáo khác biệt trong khi chỉ cần
một tôn giáo duy nhất là đủ? Tôi thường hay so sánh sự đa dạng của tôn
giáo như các loại thực phẩm khác biệt cần thiết cho thân thể chúng ta. Con
người có những khẩu vị khác nhau, người thì thích mùi vị này kẻ thì thích món
ăn kia, có người thích ăn cơm Tây, kẻ thích cơm Tàu hoặc các thực đơn khác. Mọi
người đều muốn ăn uống theo một khẩu vị đặc biệt nào đó của riêng mình.
Ðó là lý do tại sao các nhà hàng thường cung ứng một thực đơn phong phú tha hồ
cho khách lựa chọn, còn nếu họ chỉ phục vụ một món duy nhất ngày này qua ngày
khác thì chắc là họ sẽ dẹp tiệm sớm!
Tôi
nghĩ rằng cùng một nguyên tắc như thế được áp dụng cho việc bồi dưỡng tâm linh.
Nhằm đáp ứng với những nhu cầu khác biệt của con người, cũng như thỏa mãn tâm
tính, khát vọng, khuynh hướng của mỗi cá nhân mà đủ mọi triết thuyết, tôn giáo,
truyền thống tâm linh được ra đời. Bởi lẽ nhu cầu của con người quá phong phú
đa dạng, quả là điều cực kỳ khó khăn cho một tôn giáo có thể cung ứng
nổi. Thế nên nhiều đường lối tu hành chừng nào thì lại càng tốt chừng
nấy!
Cùng
một lúc ta có thể khẳng định rằng các đức tin khác biệt có thể sống hoà điệu
cùng nhau, bởi vì ngay từ căn bản, nguyên tắc đạo lý phổ quát là nền tảng quan
trọng chung của mọi tôn giáo. Nó đủ để đáp ứng cho tất cả tín đồ của các
truyền thống khác biệt có thể thông cảm hiểu biết nhau hơn và giúp cho họ
áp dụng một cách tốt đẹp những điều mà họ học hỏi được từ các tôn giáo khác,
nhằm cải thiện phương thức tu tập cá biệt của mình. Bằng cách này, người ta có
nhiều khả năng hơn để đánh giá các truyền thống khác và từ đó sẽ dẫn đến
sự tương kính nhau hơn.
Hồi
còn sống ở Tây Tạng, tôi đã không hề có một cuộc tiếp xúc thật sự nào với đại
biểu của các tôn giáo khác, dù rằng Thánh kinh cũng đã được dịch ra tiếng Tây
Tạng, tận trong tâm khảm của tôi, tôi luôn tin chắc rằng Phật giáo là tôn giáo
hoàn hão nhất và tự nhủ, quả là điều tuyệt diệu vô cùng nếu tất cả mọi người
đều cải đạo qua Phật giáo. Thế rồi, lần hồi từng tí một, tôi đã có dịp du hành
trên khắp thế giới, gặp gỡ đại diện của các đức tin khác, những người có kinh
nghiệm thấu đáo trong truyền thống tu tập riêng biệt của họ, đó là những người
đã cống hiến trọn cuộc đời của mình cho suy niệm hay giúp đỡ tha nhân. Thông
qua những tiếp xúc cá nhân và trao đổi với họ tôi nhận thức được tầm quan trọng
lớn lao của các tôn giáo khác với tất cả niềm kính trọng sâu xa. Dĩ nhiên Phật
giáo vẫn là con đường tuyệt diệu nhất đối với tôi bởi vì nó tương hợp với
bản chất của tôi. Thế nhưng điều này không có nghĩa làtôi tin rằng Phật giáo là
một tôn giáo tốt nhất cho tất cả mọi người. Phương thức tiếp cận mà tôi vừa
trình bày sẽ giúp mở rộng cánh cửa tâm hồn và mang lại những ân sũng cho bất cứ
ai thực hành nó.
Một
lần nữa, tôi nghĩ rằng nếu các tôn giáo biết học cách sống chung với nhau trong
hoà điệu và tương kính thì quả là điều hạnh phúc cho tất cả mọi người. Khi bạn
nhìn vào những trường hợp đau buồn như đã xảy ra tại Bosnia, nơi mà nhân
danh tín ngưỡng, người ta đã xâu xé giết hại lẫn nhau, gây ra vô số thảm cảnh
cho biết bao lương dân vô tội không thể nói hết được, bạn chỉ còn biết đau xót
sâu xa cho những tình huống như thế.
Ðể
kết luận, chúng ta hãy cùng suy nghĩ đến một vài câu hỏi có thể thoáng
qua tâm trí ta. Chẳng hạn như ta tin chắc rằng bản chất cơ bản của con người là
thiện lương, cũng như phát triển tình thương yêu đối với tha nhân sẽ đủ để mang
lại hoà bình; thế nhưng khi nhìn vào lịch sử thế giới, chúng ta chẳng thấy điều
gì ngoại trừ những vấn nạn do con người gây ra vẫn tiếp diễn từ hàng ngàn
năm qua. Như vậy làm thế nào để chúng ta có thể tin vào khả năng mang lại một
tình yêu thương phổ quát? Cũng vậy, chúng ta có còn hy vọng vào sự hoà điệu
tương kính giữa các tôn giáo, khi mà chúng ta thấy cùng chia xẻ chung đức tin,
con người vẫn chém giết lẫn nhau suốt qua chiều dài lịch sừ?
Theo
thiển ý của tôi chúng ta vẫn có quyền hy vọng bởi vì tình huống đã thay đổi khá
lớn lao trong thời đại ngày nay. Trong quá khứ, chúng ta có thể đề cập đến giá
trị của lòng vị tha cũng như một số ý thức trách nhiệm liên hệ đến tha nhân,
thế nhưng chúng ta đã không nhất thiết hiểu biết sự lợi ích của các thái độ
này. Thế giới hiện đại đã phát triển đến mức độ mà hai thái độ này nay đã trở
nên cần thiết, nếu không nói là không thể thiếu được. Những giá trị sâu sắc và
cổ điển này nay đã trở thành chủ yếu. Hơn thế nữa, với sự nhanh chóng và tầm
mức quan trọng của lãnh vực trao đổi và truyền thông giữa con người và các quốc
gia, chúng ta dễ dàng được thông báo về những gì đang xảy ra ở tận những nơi xa
xôi, và như thế cảm thấy trở nên gần gũi hơn với những con người đang sống xa
cách ta muôn trùng diệu vợi. Ðiều này tạo nên sự đoàn kết lớn lao hơn giữa con
người với nhau. Thế nên tôi tin chắc rằng nếu chúng ta nỗ lực đúng mức hơn,
chúng ta sẽ tạo dựng nên một thế giới hoà điệu. Ðó là tất cả những gì tôi muốn
trình bày cùng qúy vị hôm nay.
Thưa
Ngài, từ bi có những hạn chế nào không? Những gì là hạn chế của lòng khoan
dung? Có gì khác nhau giữa chấp nhận và tùng phục?
Tôi
có thể khẳng định rằng lòng từ bi không bao giờ có giới hạn vàchúng ta cũng
không có lý do gì để phải áp đặt những giới hạn lên từ bi. Tôi nghĩ rằng vấn đề
câu hỏi muốn nêu lên là chúng ta có nên phản ứng và từng bước chống trả lại
những kẻ đã tấn công ta hay không. Tôi cho là chúng ta có thể phản ứng, nhưng
đồng thời cũng nên rải tâm từ bi đến những kẻ đang gây hấn, xâm lược ta. Trong
tâm trạng như thế, những bước tiến hành sẽ trở nên hiệu quả hơn. Nếu lòng từ bi
biến mất và tâm hồn ta đầy dẫy hận thù và giận dữ, ta sẽ bị chìm ngập trong
hoang mang bối rối. Trong thực tế, bất cứ những biện pháp nào được thực hiện do
ảnh hưởng bởi những cảm tính như thế sẽ có nguy cơ bị chệch hướng và trở
nên vô hiệu. Hận thù phải được phân biệt với cơn giận tự nhiên; hận thù luôn
luôn là điều đáng lên án và không bao giờ mang lại lợi ích cho ta; ngược lại
giận dữ trong một vài tình huống có thể trở nên hữu ích, và nếu như được thúc đẩy
bởi tâm từ bi, nó có thể có khả năng làm cho ta phản ứng nhặm lẹ; trong trường
hợp này nó có tính xây dựng.
Thưa
Ngài có gì khác nhau giữa tuân phục và nhẫn nhục?
Lòng
nhẫn nhục thật sự có nghĩa là chúng ta không phản ứng lại những việc sai trái
màkẻ ác gây ra cho ta mặc dù ta có đầy đủ phương tiện để phản ứng, chẳng hạn
như việc phục thù và hành động lấy mắt trả mắt khi ta có cơ hội. Ngược lại,
tuân phục không dính dấp gì đến nhẫn nhục, đây là trường hợp ta không có khả năng
phản ứng lại kẻ đang gây tác hại cho ta, cho dù ta có thể rất giận dữ.
Thưa
Ngài, có những vị Phật được xuất hiện dưới dạng phụ nữ?
Dĩ
nhiên! Hãy nhìn vào trường hợp của Arya Tara, người phụ nữ đầu tiên đã đạt đến
trạng thái giác ngộ, một hạnh nguyện tự phát hướng đến Phật quả cho phúc lợi
của toàn thể chúng sanh, và đó là một bậc nữ lưu. Khi đạt đến giác ngộ, Ngài đã
phát nguyện như thế này: “Có rất nhiều người đã đạt được Phật quả mang thân nam
giới tuy nhiên rất ít người đạt được qủa vị này trong tấm thân nữ giới, tôi nay
đã chứng qủa bồ đề, xin nguyện tiếp tục tinh tiến trên con đường giác ngộ trong
thân phụ nữ và thành Phật dưới dạng nữ giới!” Chúng ta có thể kết luận rằng
Tara có thể là vị nữ lưu đầu tiên trong Phật giáo!
Trong
kinh Viên Giác (Paramitayana - Vehicles of Perfection), cũng như ba phẩm
đầu tiên của Tantras luôn luôn nói rằng quả vị Phật được thành tựu trong dạng
nam giới. Tuy nhiên trong phẩm thứ tư của Tantras, đã không có sự phân biệt
giữa nam giới và nữ giới; sự giác ngộ có thể thành tựu một cách dễ dàng đối với
người nữ cũng như nam.
Suốt
ngày chúng ta cạnh tranh không ngừng với tha nhân để dành phần lợi lộc cho cá
nhân mình, rồi buổi tối khi về nhà, chúng ta tự coi mình là người tốt và chia
xẻ chúng với anh chị em thân nhân của ta. Làm thế nào chúng ta có thể sống một
cách mâu thuẫn như thế?
Nói
như thế phải chăng là chúng ta đã không hề có bạn bè thân hữu trong suốt cả
ngày? Ðây là một trạng huống khó khăn mà ta thường gặp trong một vài
khung cảnh xã hội -khi ta bị bắt buộc phải sống thường xuyên trong một bầu khí
bị ngự trị bởi tinh thần cạnh tranh. Dĩ nhiên cạnh tranh bao gồm cả hai mặt
tích cực và tiêu cực. Chẳng hạn như ta có thể nói rằng tu tập Phật giáo là một
hình thái cạnh tranh xây dựng: tâm ta luôn luôn ở trong trạng thái tranh chấp
với những yếu tố tiêu cực sẵn sàng xâm chiếm và như thế nó đã phải chiến đấu
bằng đủ mọi vũ khí giải độc. Trong thương trường cũng như trong đời sống xã hội
nói chung, cũng cần phải có chỗ đứng cho sự cạnh tranh hữu ích và chánh đáng,
được thúc đẩy bởi ý hướng tốt và nêu ra được tấm gương tốt cho mọi người. Hơn
thế nữa, chúng ta biết rằng hình thức tiêu cực của tinh thần cạnh tranh thường
được thúc đẩy bởi ý hướng xấu, như cạnh tranh bẩn thỉu hoặc do thù
hằn. Ngoài ra phải kể đến sự cạnh tranh mang tinh thần vô tư, đặc biệt là
trong thương trường, mà những nỗ lực không ngoài mục đích mang đến lợi nhuận và
kiếm sống. Tất cả, theo tôi đều tùy thuộc vào thái độ tinh thần thúc đẩy những
hoạt động này.
Trong
một xã hội mà sự cạnh tranh là một hiện hữu đương nhiên, những phản ứng của con
người thường khác biệt tùy theo bản tánh và cách nhìn vấn đề của họ. Nếu chúng
ta cư xử một cách lương thiện, tử tế mà vẫn bị kẻ khác phá hoại bởi những người
lợi dụng bản tánh tốt đẹp của ta để cạnh tranh bất chính, tôi nghĩ rằng chúng
ta có thể sẽ phải phản ứng, nhưng sẽ không dùng các thủ thuật bá đạo; bởi
vì trong những tình huống như vậy nếu không biểu lộ tinh thần cạnh tranh, ta sẽ
làm ngăn trở sự tiến bộ.
Theo
Ngài những gì là yếu tố chính mà bậc phụ huynh cần nên bao gồm vào nền học vấn
của con trẻ?
Cho
dù phẩm chất trí tuệ mà nền giáo dục mang lại cho ta là gì đi nữa nó cũng phải
được hoà điệu với những nguyên lý căn bản của con người, thế nên nền giáo dục
đó cần bao gồm những yếu tố của tình thương yêu và từ bi, bởi vì không có gì
bảo đảm rằng chỉ kiến thức không thôi là thực sự hữu ích cho con người. Tôi
thấy rằng trong số những kẻ gây nên những vấn nạn lớn lao cho xã hội đã không
thiếu gì những người có học thức cao và giàu kiến thức, tuy nhiên họ thiếu căn
bản đạo đức, tức là hướng đến việc phát triển từ bi, trí huệ và thị kiến rõ
ràng. Bởi lẽ đó, một điều hiển nhiên là không phải chúng ta chỉ đảm bảo cho con
trẻ có một nền học vấn cao, mà đồng thời còn phải tạo dựng nên một môi trường
thuận tiện cho việc vun trồng các phẩm chất tốt đẹp như tình yêu tha nhân chẳng
hạn.
Làm
thế nào để dạy trẻ lòng từ bi? Không phải chỉ bằng lời nói suông mà là bằng
hành động, ta phải nêu ra những tấm gương tốt và sống theo như thế để cho trẻ
con có thể học bằng cách quan sát, bắt chước theo cha mẹ chúng; đó là lý do tại
sao môi trường gia đình rất quan trọng trong giáo dục.
Người
ta từng nói rằng cười là món quà đặc biệt được ban cho con người. Theo ý Ngài,
con người đã cười quá nhiều hay chưa đủ?
Tôi
đã được biết rằng một số loài khỉ cũng có khả năng cười dỡn; tôi không rõ
lắm. Nhưng nói chung, hình như cười là một bản tính đặc biệt của nhân
loại. Chắc chắn cũng có một số người ít khi mĩm cười! Tuy nhiên tôi không nghĩ
rằng người ta lại có thể cười cợt quá mức. Ai mà biết? Có một vấn nạn là những
người cười quá độ thì rất hiếm, trong khi những người không chịu mĩm cười thì
lại quá nhiều!
Thưa
Ngài, tại sao lại có chuyện hạnh phúc của người này có được là do ở sự mất mát
hạnh phúc của kẻ khác?
Gốc
rễ của vấn đề này là do ta thiếu tầm nhìn xa thấy rộng hoặc là những người
không theo một hành trình tâm linh nào cụ thể. Khi ta tìm kiếm hạnh phúc cho
riêng mình bằng cách tước đoạt hạnh phúc của kẻ khác, tự thâm tâm ta sẽ chẳng
bao giờ cảm thấy vui sướng và về lâu về dài ta sẽ trở nên cô độc, không còn
liên hệ được với tha nhân.
Xã
hội mà chúng ta sống đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển khoa học, kỹ
thuật. Thế nhưng chúng tôi vẫn có ấn tượng rằng tình cảm của chúng ta cũng như
vòng vây của bạo lực do tham ái gây ra trải qua hàng ngàn năm đã chẳng biến đổi
chút nào. Theo ý Ngài, làm thế nào thế giới có thể giải quyết vấn nạn này mà
không gây khổ đau cho những kẻ yếu hèn xấu số?
Liên
quan đến phần thứ nhất của câu hỏi, về vấn nạn của bạo lực, tôi cho rằng có rất
nhiều yếu tố can dự vào: hai nguyên nhân quan trọng nhất là sự gia tăng nhân số
và bên cạnh đó là việc thủ đắc vũ khí quá dễ dàng. Ðể giải quyết vấn nạn này,
chúng ta cần phải cân nhắc khi hoạch định các chính sách về hạn chế sinh sản và
về giải trừ quân bị. Vấn đề hiện nay không phải là làm cho đầu óc con người bị
tràn ngập bởi những nguồn thông tin không ngừng gia tăng, mà là bằng phương
tiện đó tạo cơ hội đồng đều cho họ được hấp thụ các chất liệu bổ dưỡng tinh
thần, để cho mỗi người có thể tự thay đổi tâm tánh và cải thiện thái độ cư xử
của họ đối với tha nhân. Trong trường hợp này, ngành truyền thông đóng một vai
trò khá quan trọng; tuy nhiên tôi không khỏi phiền lòng khi thấy họ chỉ chú mục
vào các chuyện tiêu cực. Tôi nghĩ rằng để có thể có được một ấn tượng công bằng
và quân bình hơn đối với sự việc, bộ phận truyền thông cần nên quan tâm đồng
đều đến những vụ việc phản ánh được phẩm chất tốt đẹp và những thành tựu của
con người, nếu không chúng ta rốt cùng sẽ tin rằng bản tánh của con người là
xấu ác, thích gây hấn, và như vậy chúng ta sẽ sống trong thất vọng.
Phần
thứ hai của câu hỏi đối phó với vấn nạn bạo lực liên hệ đến tâm thủ đắc của con
người. Thưa Ngài, nhân danh những người nghèo khổ yếu kém nhất trên thế
gian này, ta làm thế nào để giải quyết vấn nạn này mà không phải sử dụng đến
các biện pháp triệt để? Làm thế nào để những kẻ giàu có biết phát triển lòng
kính trọng đối với kẻ khác?
Tôi
nghĩ rằng mọi tôn giáo đều tối thiểu khuyến khích chứ không hề chối bỏ sự
phát triển cuả tinh thần tri túc. Bằng cách cho thấy được những lợi lạc của
thái độ sống này người ta có thể giải thích làm thế nào để chúng ta có thể mãn
nguyện với những gì ta có, dù ít ỏi nhất. Gần đây tôi có dịp thăm viếng tu viện
Grande Chartreuse và vô cùng sửng sốt khi biết được những tu sĩ ở đây sống hoàn
toàn cắt đứt với những liên hệ của thế giới bên ngoài, không cả tin tức báo chí
hay đài phát thanh, và tôi đã rất ngạc nhiên đầy thán phục trước phẩm chất
tuyệt vời và cuộc sống rất giản đơn của họ.
Như
vậy làm thế nào để một người không dính dấp gì đến cuộc sống tu hành tôn giáo
có thể học được cách sống thoả mãn với những sở hữu tối thiểu? Trên một
khía cạnh khác, phải chăng những người giàu có nhất đang là kẻ nô lệ cho tài
sản, đồng tiền của họ? Những người triệu phú đâu có nghĩa là sẽ được thụ
hưởng một tuổi thọ lâu dài và có sức khỏe dồi dào hơn kẻ khác; mặc dù những tài
sản mà họ có trong tay chưa hẵn đã làm cho họ có một đời sống hạnh phúc hơn.
Nếu chúng ta luôn nhắc nhở mình như thế, chúng ta sẽ học được cách sống thỏa
mãn với những gì hiện có.
Trong
một lần thăm viếng Hoa Kỳ, tôi đã được một vị khách qúy giàu có mời về nhà ăn
trưa. Tôi đã có dịp quan sát sự giàusang và tiện nghi phô bày trong ngôi nhà
của họ và thầm nghĩ rằng những người này đang sống một cuộc sống hoàn toàn thỏa
mãn. Ðến cuối bửa ăn tôi vào phòng tắm để rửa ráy thay đồ và bất chợt nhìn vào
tủ thuốc khép hờ của họ: đủ các loại thuốc ngủ và giảm thống. Tôi kết luận rằng
họ đã không hạnh phúc lắm như ta tưởng.
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, phải chăng đối nghịch của vị tha là ích kỷ? Có phải là
chúng ta cần một ít ích kỷ để đạt đến hạnh phúc?
Khi
nói đến vị tha có nghĩa là chúng ta không nên nghĩ đến phúc lợi cho riêng cá
nhân mình. Ðiều này không có nghĩa là ta phải trở thành những kẻ tử vì đạo! Nó
chỉ có một ý nghĩa rất đơn giản là ta không nên bỏ quên người khác để chỉ tìm
kiếm hạnh phúc cho riêng cá nhân mình, tức là ta quan tâm đến đồng loại nếu
không quan trọng hơn thì tối thiểu cũng bằng ta.
Khi
tư tưởng và hành động của chúng ta luôn hướng đến tha nhân và làm mọi cách cho
họ được hạnh phúc, chúng ta sẽ thấy rằng hạnh phúc sẽ đến với chúng ta một cách
rất mau chóng, tự nhiên. Yêu thương tha nhân và từ bỏ phúc lợi của chính bản
thân mình không bao giờ đưa đến đau khổ. Ðó là lý do tại sao tôi thường hay nói
rằng nếu chúng ta muốn chấp nhận thực hiện một thái độ vị kỷ, hãy làm một cách
thật thông minh. Ðây là lý lẽ: chúng ta thường có thói quen chỉ nghĩ đến mình
mà quên đi quyền lợi và nguyện vọng của kẻ khác, cao điểm là việc khai thác lợi
dụng tha nhân cho lợi nhuận của cá nhân mình. Trong những tình huống như vậy,
cho dù chúng ta đang đi kiếm tìm hạnh phúc, ta sẽ không đạt được gì ngoài đau
khổ. Ngược lại, nếu ta cố gắng giúp đỡ tha nhân, phục vụ kẻ khác, mang
đến hạnh phúc cho họ, chung cuộc ta sẽ là người thu được ích lợi, bởi vì
ta sẽ cảm thấy sung sướng hạnh phúc hơn. Ðó là điều mà tôi gọi là ích kỷ thông
minh.
Trong
số các tâm trạng khác nhau mà ta được biết, chẳng hạn như lòng tham ái,
có thể là tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào những gì thúc đẩy chúng. Hãy xem
trường hợp biểu hiện rõ rệt ý thức của bản ngã: nếu đây rõ ràng là một thái độ
trịch thượng bề trên đưa đến việc chống đối và coi thường kẻ khác, chúng ta
đang đối diện với sự kiêu hảnh, một trạng thái tiêu cực của tâm hồn. Thế
nhưng nếu cùng một khái niệm đó -ý thức về bản ngã- cũng có thể được biểu lộ
dưới hình thức của sự tự tin, dẫn đến lòng can đảm và niềm tin chắc chắn rằng,
ví dụ như, mình có khả năng đạt đến giác ngộ cho phúc lợi của muôn người.
Trong trường hợp này, nó có tính xây dựng và tích cực.
Ngài
nghĩ như thế nào về sự mê đắm?
Khi
chúng ta mê say điều gì, sự dấn thân và lòng quyết tâm của ta càng gia tăng.
Thật ra bạn có thể áp dụng quan điểm này đối với mọi loại tình cảm kể cả tiêu
cực hay tích cực. Lòng từ bi chẳng hạn được coi là tích cực trong khi tinh thần
chấp trước được coi là tiêu cực. Có một số tình cảm tự nó không là tích
cực hay tiêu cực. Nếu chúng ta coi sự mê đắm như là một tình cảm cực kỳ mạnh
mẽ, có thể đưa ta đến sự dấn thân và một tinh thần trách nhiệm cao độ thì đó
chính là khía cạnh tích cực của lòng mê đắm. Có lần tôi tham dự một buổi hội
thảo quan trọng gồm những nhà chuyên môn và mỗi người phát biểu khá lâu, phân
tích khá chi tiết về lãnh vực chuyên môn của mình. Họ thật sự là những nhà uyên
bác.
Ðến
phiên tôi phát biểu, tôi có cảm tưởng rằng không còn gì để phải nói nữa, thế
nhưng như thường lệ, nhân danh tư cách một nhà tâm lý học Phật giáo, tôi muốn
nhấn mạnh đến sự quan trọng của động cơ thúc đẩy, của ý hướng -tức là động lực
thúc đẩy đằng sau mọi hành động của chúng ta- cũng như về ý thức trách nhiệm.
Tôi tiếp tục phát biểu là tôi sợ rằng với sự phân tích một cách chi ly thái quá
về phương thức tiếp cận như thế, nếu ngôi nhà của qúy vị bị phát hoả, những
người bạn thân yêu của tôi ơi, lúc đó chắc qúy vị sẽ đứng yên một chỗ để phân
tích tình huống, đặt vấn đề hỏa hoạn đã được bắt đầu như thế nào, phát khởi ở
đâu, tại sao nó lại cháy theo kiểu cách như vậy, v.v... và v.v... Tất cả mọi
người đều bật cười!