VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ BA
BẤT BẠO ÐỘNG:
MỘT TẤM GƯƠNG ÐỂ NOI THEO
VỀ TƯƠNG LAI
CỦA MỘT ÐẤT NƯỚC TÂY TẠNG TỰ DO
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, trong một bài diễn văn vào năm 1988, Ngài đã lên tiếng từ bỏ
yêu sách đòi hỏi độc lập cho Tây Tạng nhằm mục đích mở rộng cánh cửa đối thoại
với Trung Cộng. Có phải theo đường lối suy nghĩ của Ngài, đây là một sự từ bỏ
hoàn toàn?
Như
tôi đã từng phát biểu trước đây, Tây Tạng đang đối diện với hiểm họa bị diệt
chủng. Thế nên chúng tôi phải làm bất cứ điều gì có thể được để cứu vớt đất
nước được kế thừa một nền văn hoá thuần nhất này. Thực tế chính trị là sẽ không
ai trở về để đuổi kẻ xâm lăng Trung quốc ra khỏi nước. Thái độ thực tiễn
duy nhất là tìm cách giải quyết trực tiếp vấn đề với chính quyền Trung quốc.
Sức mạnh của chúng tôi là công lý và sự thật. Chúng tôi không có gì để phải che
dấu; chúng tôi có mọi quyền, và đủ sức chịu đựng ngoan cường để có thể gặp gỡ
người anh em, chị em Trung Quốc và nói chuyện thẳng với họ.
Cuối
năm 1978, nhà nước Trung Quốc ngõ ý rằng họ muốn thiết lập mối dây liên lạc với
tôi. Tôi đã đáp ứng lập tức và gởi ngay một phái viên cá nhân, một người em của
tôi có khả năng nói tiếng Trung Hoa lưu loát, đến gặp họ. Ông ta đã được Ðặng
Tiểu Bình tiếp kiến. Cuộc gặp gỡ đã kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ và Ðặng
Tiểu Bình cho hay là hai bên có thể thảo luận mọi vấn đề ngoại trừ chuyện độc
lập hoàn toàn cho Tây Tạng, tuy nhiên đây cũng là một đề nghị rất đáng được
quan tâm.
Từ
đó cho đến nay, trong vòng mười bốn năm qua, toàn bộ những tiếp cận của chúng
tôi đã được dựa trên căn bản của điều kiện này. Ðó là lý do tại sao tôi đã
không đòi hỏi sự độc lập toàn vẹn của Tây Tạng. Nhưng điều này không có nghĩa
là chúng tôi không có quyền đòi hỏi độc lập. Thế giới đều biết rằng Tây Tạng là
một quốc gia đang bị xâm chiếm. Tôi thường cho rằng đường lối mà tôi đang theo
đuổi là con đường Trung Ðạo. Tuy nhiên tôi cũng đã tuyên bố rất rõ ràng trong
một dự thảo được công bố tại Strasbourg rằng quyền quyết định tối hậu thuộc về
nhân dân Tây Tạng. Một số người Tây Tạng đã chỉ trích kịch liệt dự thảo này,
thậm chí có người đã bảo thẳng vào mặt tôi : “Ông, vị Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ
mười bốn, đã bán rẽ quyền sống của nhân dân Tây Tạng!” Thế nhưng, tôi nghĩ rằng
chúng ta cần phải đối diện vấn đề một cách thẳng thắn. Tây Tạng là một quốc gia
bị bao quanh bởi đất liền, muốn đến được biển phải trông cậy vào quốc gia láng
giềng. Với tình huống như hiện nay, tốt hơn, và thực tế hơn là ta nên cố gắng
đi đến một giải pháp như thế nào đó với Trung Quốc.
Một
phần của lãnh thổ Tây Tạng đã được tái phân bố vào một số tỉnh của Trung Quốc.
Ngài nghĩ như thế nào về vấn đề biên giới của một Tây Tạng tự trị?
Biên
giới giữa Tây Tạng và Trung Quốc đã được vẽ ra một cách rõ ràng vào thế kỷ thứ
bảy. Bây giờ thì Trung Quốc đang cố gắng sử dụng đủ mọi luận chứng lịch sử liên
hệ đến thế kỷ thứ mười ba, thế kỷ thứ bảy... để biện minh cho việc làm của họ.
Giả dụ như nếu tôi chấp nhận điều kiện tiên quyết mà ông Ðặng Tiểu Bình
nêu ra, tôi nghĩ là tôi có đủ mọi quyền để thảo luận tiếp những vấn đề còn lại.
Thế nên tôi đã bảo họ rằng nếu chính phủ Trung Quốc đã công nhận sự hiệ n hữu
của đủ mọi loại mệnh danh là khu vực, vùng và ngay cả quận huyện mà Trung Quốc
đã từng gọi đó là các khu vực, vùng, quận huyện của sắc tộc thiểu số Tây Tạng,
thì tại sao không gộp chung chúng lại với nhau thành một thực thể duy nhất? Như
vậy có phải là đơn giản và dễ dàng cho việc gìn giữ, bảo tồn nền văn hóa và bản
sắc của Tây Tạng hay không? Vào thế kỷ thứ tám, dưới triều đại của quốc
vương Trisong Detsen và quốc vương Tri Ralpachen, biên giới giữa Trung
Quốc và Tây Tạng đã được phân ranh ghi dấu rõ ràng từ tỉnh Vân Nam của Trung
Quốc cho đến tỉnh Amdo của Tây Tạng ở phía Bắc. Có những ghi dấu được khắc trên
các trụ bia, trên đá. Cụ thể ở tỉnh Vân Nam thì được khắc trên đá. Những ghi
dấu này đã xác định biên giới thực sự giữa Trung Quốc và Tây Tạng, và đó không
phải là điều chúng tôi dựng đứng lên mà là thực tế lịch sử.
Những
chế độ độc tài chuyên chế nói chung, và Cộng sản nói riêng, bất hạnh thay,
thường có khuynh hướng xuyên tạc lịch sử bằng cách viết lại lịch sử. Tôi đã
nhận thấy điều này rất rõ trong thời gian lưu trú khoảng sáu tháng tại Trung
Quốc từ năm 1954 đến 1955. Trong dịp này, tôi đã có cơ hội thăm viếng Mãn Châu,
mà Trung Quốc gọi là Tumbe, và các khu vực trong vùng Hreang và Hắc Long Giang.
Tại đây, trong một viện bảo tàng kỷ niệm vụ tàn sát của Nhật Bản, tôi đã thấy
họ giải thích rằng Nhật Bản chỉ đầu hàng sau khi quân đội Sô Viết đánh tan
lực lượng chủ lực của Nhật Bản, quân đội Quang -tuong, tại Mãn Châu. Thời gian
này tôi đang ở thủ đô Lhasa và hầu như đã biết hết tất cả mọi chuyện thực sự
xảy ra lúc đó -mà thực tế là, Nhật Bản chỉ đầu hàng sau khi hai quả bom nguyên
tử rơi xuống Trường Kỳ và Quảng Ðảo, sau đó thì Nga Sô mới tuyên chiến với Nhật
Bản. Trung Cộng đã vẽ ra chuyện là Nhật Bản chỉ đầu hàng sau khi lực lượng chủ
lực tinh nhuệ của họ hoàn toàn bị Hồng quân tiêu diệt tại Mãn Châu. Ðó là một
thí dụ cụ thể về chuyện xuyên tạc lịch sử.
Ngài
cũng thường tuyên bố rằng có ý muốn đạt đến một sự tổng hợp giữa Phật giáo và
Mác-xít. Thưa Ngài, chủ nghĩa Mác-xít có gì hấp dẫn đối với Ngài?
Trong
số các lý thuyết kinh tế hiện đại, hệ thống kinh tế Mác-xít được xây dựng trên
căn bản của những nguyên tắc đạo đức, trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ thuần tuý
quan tâm đến vấn đề lợi nhuận. Chủ nghĩa Mác-xít đặt trọng tâm vào việc
phân bố tài sản một cách đồng đều và bình đẳng trong việc sử dụng các phương
tiện sản xuất. Ðồng thời chủ nghĩa này cũng lưu tâm đến số phận của giới lao
động -tức là đại đa số quần chúng- cũng như của những người thuộc đáy tầng xã
hội, đang cần được giúp đỡ, chủ nghĩa Mác-xít cũng chú ý đến những nạn nhân của
thiểu số bị bóc lột. Bỡi những lý do trên, hệ thống kinh tế này có vẻ như công
bằng và có sức thu hút đối với tôi. Gần đây tôi cũng đã được đọc một bài viết
trên báo chí trong đó Ðức Giáo Hoàng cũng đã vạch ra một vài khía cạnh tích cực
của chủ nghĩa Mác-xít.
Qua
sự sụp đổ của một số chế độ cộng sản, trước tiên tôi cho rằng các quốc gia như
Liên Bang Sô Viết cũ, hoặc Trung Hoa, thậm chí cả Việt Nam không phải là những
quốc gia theo chủ nghĩa Mác thật sự, bởi lẽ họ chỉ quan tâm đến quyền lợi hẹp
hòi của quốc gia mình hơn là quyền lợi của Lao Ðộng Quốc Tế; đó là lý do tại
sao luôn luôn có những tranh chấp giữa họ với nhau, cụ thể như giữa Trung
Quốc và Nga Sô hoặc giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nếu những chế độ này thật sự
được xây dựng trên căn bản những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, những sự xung đột
đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Tôi
nghĩ rằng điểm sai lầm chủ yếu của các chế độ cộng sản là họ quá đặt nặng vào
việc thủ tiêu giai cấp chủ nhân, chủ trương đấu tranh giai cấp, và điều này đã
khuyến khích con người giảm thiểu lòng từ, tăng trưởng thù hận. Cho dù mục tiêu
cơ bản của họ có thể là lý tưởng phục vụ đa số quần chúng, thế nhưng khi họ cố
gắng thực hiện điều đó, tất cả mọi năng lực của họ đã bị chệch hướng và biến
thành những hoạt động phá hoại. Một khi cuộc cách mạng đã hoàn tất, giai cấp
chủ nhân đã bị tiêu diệt thì rồi cũng chẳng còn gì sót lại cho dân chúng; đến
lúc này cả nước trở nên nghèo đói và bất hạnh thay điều này làm người ta
tưởng rằng mục tiêu cơ bản của người cộng sản là bần cùng hoá nhân dân. Một cách tóm tắt, điểm tiêu cực chính của các chế độ này là được xây dựng trên
căn bản hận thù, không có chút gì từ ái.
Sự sụp đổ của chế độ này tại Sô Viết cũ theo tôi không phải là sự thất bại của
chủ nghĩa Mác mà là sự thất bại của chế độ độc tài toàn trị. Bởi lẽ này, tôi
vẫn tự xem mình như là một người nửa Phật giáo, nửa Mác-xít.
Ngài
đã lên tiếng kêu gọi cho hồi hương tất cả những người Trung quốc đang sinh sống
tại Tây Tạng. Như thế, một nước Tây Tạng dân chủ, cởi mở trong tương lai có chỗ
đứng nào cho những người này không?
Tôi
nghĩ là chúng ta cần nên phân biệt những nhóm người Trung Quốc khác nhau hiện
đang sinh sống tại Tây Tạng. Có những người đã đến định cư tại đây từ năm
1949; tiếp theo là những người tự động hoặc được đưa đến theo kế hoạch của nhà
nước Trung Quốc; và cuối cùng là những người tìm đến Tây Tạng, thường là do ý
nguyện cá nhân của họ, kể từ khi cái được gọi là “chính sách kinh tế tự do” ra
đời. Chúng ta cũng cần nên phân biệt những người Trung Quốc biết nói tiếng Tây
Tạng và kính trọng nền văn hoá Tây Tạng -bởi vì nói cho cùng, tín ngưỡng Phật
giáo không xa lạ gì đối với họ- và những người chạy đến Tây Tạng với mục đích
chính là làm giàu chứ không phải tìm kiếm nguồn mạch tâm linh phong phú tại
đây. Như thế, đối với những người kính ngưỡng đời sống tinh thần của Tây Tạng,
sự hiện diện của họ là điều hữu ích. Nếu thành phần này không đông đảo tôi nghĩ
là không có lý do gì để không thể làm việc với nhau và tìm ra một giải pháp cho
họ tiếp tục sinh sống tại Tây Tạng. Thế nhưng đối với tất cả những người cho
rằng người Tây Tạng là lạc hậu, dã man, dơ dáy và hôi hám (người Tây Tạng chúng
tôi cũng cho là người Tàu hôi hám như vậy, vì họ ăn quá nhiều tỏi), thì tốt hơn
hết là họ nên hồi hương. Tại sao họ phải sống ở những nơi dơ dáy làm gì?
CUỘC ÐẤU TRANH CHO TỰ DO
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, trong cuộc đấu tranh nhằm giải phóng Tây Tạng, có phải là
Ngài tuyệt đối chống lại phương thức bạo động, hoặc ít ra theo Ngài bất bạo
động là con đường tốt nhất để đạt đến mục tiêu tối hậu?
Vâng,
tôi tuyệt đối chống lại phương thức bạo động. Những năm trở lại đây, trong
nhiều dịp người ta hỏi tôi rằng tôi sẽ làm gì nếu một số người Tây Tạng vì
tuyệt vọng có thể trở thành bạo động, tôi luôn luôn trả lời rằng nếu trường hợp
như vậy xảy ra, tôi sẽ không còn một lựa chọn nào khác hơn là từ chức và đứng
qua một bên. Tôi có lý do để tin tưởng vào đường lối bất bạo động; và đó không
phải là một niềm tin mù quáng. Trước tiên tôi tin rằng bản tánh của con người
là thiện lương và từ ái. Thế nên vì lợi ích của chính chúng ta, phải
khuyến khích bản tánh này, và tạo cơ hội cho nó phát triển, nẩy nở trong mỗi
con người. Ngược lại, nếu chúng ta đi vào con đường bạo động thì chẳng khác gì
chúng ta đã làm che lấp mặt tích cực của bản tánh con người, ngăn cản không cho
nó phát triển.
Ðệ
Nhất Thế Chiến chấm dứt với sự thảm bại của Ðức Quốc, sự thảm bại này đã gây
nên những hội chứng bi thảm cho người dân Ðức, và đó chính là những hạt giống
ươm mầm cho trận Ðệ Nhị Thế Chiến. Trong bất cứ tình huống nào, một khi bạo
động thắng thế, người ta sẽ không còn kiểm soát được tình cảm. Ðây là một điều
rất nguy hiểm và chắc chắn là nó sẽ dẫn đến những thảm kịch. Ðó chính là
những gì đang xảy ra tại Bosnia hiện nay. Phương thức bạo động chỉ
tạo ra thêm những vấn nạn mới.
Trong trường hợp của chúng tôi, điều quan trọng nhất là những người Tây Tạng và
những anh chị em Trung Quốc trên thực tế luôn luôn vẫn là những người láng
giềng thân hữu và tình cảm đó cần phải được duy trì. Thế cho nên giải pháp duy
nhất cho Tây Tạng tương lai là học cách sống hoà thuận với những người láng
giềng của mình. Giải pháp đó phải được xây dựng trên căn bản quyền lợi hổ tương
của hai nước. Do lựa chọn con đường bất bạo động, những người Trung Quốc trong
cũng như ngoài nước đã tỏ ra thiện cảm và quan tâm đến lý tưởng đấu tranh của
chúng tôi; nhiều người đã thẳng thắn phát biểu rằng họ rất tán trợ đường lối
tranh đấu đó.
Như
vậy thì Ngài cũng không chấp nhận cả việc cầm vũ khí chống lại Hitler?
Tôi
không chắc. Chúng ta cần phải đi vào chi tiết. Vào thời điểm mà chủ nghĩa Quốc
xã bám rễ và bắt đầu phát huy sức mạnh, uy thế, nếu tôi ở vào thời điểm bấy giờ
tôi sẽ vận dụng mọi nỗ lực cá nhân của mình để tìm cách ngăn chặn.
Cách đây không bao lâu, lúc còn ở Ba Lan tôi có dịp thăm viếng trại tập trung
Auschwitz, nơi mà hàng ngàn người dân vô tội đã bị Ðức quốc xã thủ tiêu. Tôi
dừng lại trong giây lát trước phòng hơi ngạt và khi nhìn thấy cái lò thiêu xác,
tôi đã không dấu được nỗi ngậm ngùi. Càng đau buồn hơn khi tôi đứng trước cả
một núi giày và tóc của nạn nhân. Trong cái đống giày đó tôi nhìn thấy một đôi
giày nhỏ, một đôi giày đã bị thủng được vá lại, chắc là của một đứa bé nghèo.
Tôi tự hỏi mình tại sao họ lại nỡ tâm tàn sát những người dân vô tội này? Tại
sao? Hãy tưởng tượng rằng trong thời điểm này, một bên là một nhúm
nhỏ lính mật vụ xung phong SS Ðức canh gác, còn một bên là một khối lượng đông
đảo những người Do Thái, Pháp, Ba Lan đang bị cầm tù. Giả dụ rằng nếu lúc đó ta
có đủ điều kiện trong tay, chỉ cần loại trừ vài người lính SS này, thì hàng
ngàn người sẽ được giải phóng, tự do, phải không? Nếu lúc đó tôi có vũ
khí trên tay, và tôi biết chắc chuyện như vậy sẽ xảy ra... Tôi phải làm sao
đây, thật là khó nói. Mà thôi, đó chỉ là chuyện giả tưởng, cũng chẳng có ích
lợi gì để nhắc lại. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu bạn ở trong hoàn cảnh đó, chắc
là bạn cũng sẽ đứng về phía với tôi.
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, có thể có nguy cơ những thông điệp mà Ngài muốn rao truyền
đến chúng tôi đã bị làm sai lạc đi bởi các hệ thống truyền thông bao quanh
Ngài?
Tôi
không nghĩ thế. Dĩ nhiên cũng có lúc một số câu, lời nói của tôi đã bị xuyên
tạc, thế nhưng nói chung phía truyền thông đã dành cho tôi mọi sự thiện cảm và
những đáp ứng của họ rất tích cực.
Tôi rất ngưỡng mộ tinh thần nghề nghiệp của giới báo chí và tôn trọng quyền
được chỏ mũi của họ vào công việc của người khác, bởi vì tôi nghĩ rằng họ làm
như thế không ngoài mục đích phơi bày ra những vụ xấu xa tai tiếng và ngăn ngừa
sự nhũng nhiễu lạm quyền. Có nhiều người rất thông minh và sở trường trong nghệ
thuật dấu diếm các việc làm bất chính. Bạn có thể tìm thấy điều này trong giới
chính khách cũng như thương gia và thỉnh thoảng ngay cả trong địa hạt tôn giáo,
hoặc trong giới giáo sư đại học không chừng, ai mà biết được! Ðây là kết quả
của sự thiếu vắng ý thức kỹ luật, đạo đức của một số người có một vị trí quan
trọng trong xã hội. Giới truyền thông báo chí rất tinh tường nhạy bén, có nghĩa
là họ có khả năng khám phá ra những tình huống như vậy, và tôi nghĩ đây là một
khía cạnh khá tích cực, bởi vì nếu một người được coi là lương thiện, tất
cả mọi biểu hiện của họ cần phải nên trung thực. Nếu có sự sai khác nào
giữa hai khía cạnh này, cá nhân đó không thể là người đáng tin cậy, họ chỉ tìm
đủ mọi cách để dối gạt kẻ khác. Thế nên tôi tin rằng giới báo chí truyền thông
đã hoạt động rất tích cực trên mặt phơi bày sự thực này.
Ngài
có nghĩ rằng chính phủ Pháp rất đạo đức giả khi đã không tiếp đón Ngài một cách
chính thức, cũng như đã không đối đầu một cách thẳng thắn rõ ràng với Trung
Cộng về vấn đề Tây Tạng?
Tôi
không nghĩ là người ta nên lên án một chính phủ vì những việc như thế. Hãy lấy
người Tây Tạng của chúng tôi làm một thí dụ: Họ muốn rất nhiều, thế nhưng một
số người khác đang gánh vác trách nhiệm như chúng tôi, phải dựa vào rất
nhiều yếu tố để xem xét cân nhắc một vấn đề. Một chính phủ cũng thế, những
hành động của họ đều phải dựa trên tình huống thực tại. Tôi không thể cáo buộc
một quốc gia trên căn bản cá nhân, thế nhưng tôi lên án nền chính trị quốc tế
một cách tổng quát: Có một cái gì đó rất trục trặc trong đường lối, chính sách
toàn cầu.
Những
người mang tinh thần thực tiễn chính trị luôn luôn cho rằng không có chỗ đứng
cho yếu tố đạo đức trong chính trị. Ðây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, bởi
vì như một hệ quả, một số các quốc gia nhược tiểu sẽ phải gánh chịu những khổ
nạn mà trong đó, những thành phần yếu kém, bất hạnh nhất sẽ gánh chịu nhiều đau khổ nhất. Cuối cùng với những chính sách như thế, các đại cường về
lâu về dài cũng không tránh khỏi bị công kích từ mọi phía.
Tôi
xin được cống hiến cùng qúy vị một kinh nghiệm cá nhân. Vài năm trước đây tôi
có dịp viếng thăm Mạc Tư Khoa, ngay sau cuộc cách mạng Tháng Tám. Sau đó khi
rời AÂu Châu trở lại Ấn Ðộ, tôi gặp một viên chức người Phi Châu cùng đi chung
một chuyến bay. Khi dừng lại ở Tân Ðề Li, chúng tôi đã chuyện trò tán gẫu với
nhau trong giây lát, và tôi đã chia xẻ những cảm nghĩ của tôi với ông ta về
những biến cố vừa xảy ra tại Mạc Tư Khoa. Tôi cho biết rằng mình đã rất hài
lòng khi chứng kiến tình huống hiện nay giữa hai siêu cường nguyên tử đã thay
đổi, ít nhất là trong một thời gian tới con người sẽ không còn lo sợ bởi hiểm
họa của một cuộc chiến tranh nguyên tử. Tôi nghĩ là ông ta cùng chia xẻ
những cảm nghĩ như thế. Nhưng thực tế khác hẵn với điều tôi chờ đợi.
Vị
quan chức Phi Châu này giải thích với tôi rằng, trước và trong thời gian Chiến Tranh
Lạnh, các quốc gia của Thế Giới Thứ Ba còn có chỗ đứng để vận động, gây ảnh
hưởng và có thể biết được những cái mà họ trông chờ thu hoạch được. Nay
thì những tụ điểm liên hệ đã biến mất nhường chỗ cho một giai đoạn cực kỳ bất
ổn mà họ phải đương đầu. Tự nhiên tôi cảm thấy một mối thiện cảm sâu xa đối với
ông ta. Tôi luận ra rằng, tất cả đều giống nhau, khối độc tài Ðông Âu tự
gọi mình là “những-người-yêu-hòa-bình” nhưng trong thực tế đã sử dụng phần lớn
ngân sách của họ cho việc chế tạo vũ khí, và khi làm như thế họ đã hy sinh phúc
lợi của dân tộc họ. Các quốc gia Tây phương, dĩ nhiên không phải là không
có sai lầm, nhưng may mắn được sống dưới chế độ dân chủ mà óc sáng tạo của con
người có cơ hội và điều kiện phát triển một cách toàn diện, đã đưa đến
những phát kiến quan trọng trong các lãnh vực kinh tế, giáo dục, khoa
học. Dĩ nhiên chúng ta cũng đã chứng kiến những tiến bộ khoa học lớn lao của
Liên Bang Sô Viết cũ, nhưng những thành tựu của họ thường liên hệ với những
hoạt động quân sự.
Thực
tế cho thấy thế giới bây giờ đã trở nên an toàn hơn. Tuy nhiên đối với các quốc
gia Thế Giới Thứ Ba, có phải hình ảnh của Tây phương, cụ thể là Mỹ là hình ảnh
biểu trưng của những gì được gọi là dân chủ, tự do, của phẩm giá con người?
Không, không hoàn toàn như thế. Tại sao? Tại vì họ bị chế ngự bởi tinh
thần chính trị chỉ biết phục vụ cho lợi ích của chính mình, nền chính trị
của những nhà chính khách chuyên nghiệp. Nếu những nguyên tắc đạo lý được tôn
trọng trong chính sách đối ngoại, sẽ không bao giờ có những vấn nạn như thế xảy
ra. Ðây là điều sai lầm lớn lao cần phải được sửa chữa. Tôi thường phát
biểu với các người bạn Hoa Kỳ rằng: Bây giờ thì quý vị đã là một siêu cường duy
nhất, sự thay đổi tùy thuộc ở qúy vị; qúy vị nên quay về với những nguyên
tắc của các nhà chính khách vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ như Jefferson hoặc
Lincoln, những người biết tôn trọng những giá trị của tự do và dân chủ, cũng
như đã chiến đấu để bảo vệ những giá trị đó.
Ðể
kết luận, một chính khách có cần thiết được hướng dẫn bởi lòng từ bi?
Vâng.
Tôi nghĩ như thế. Nhưng phải là lòng từ bi thông minh, được soi sáng bởi trí
tuệ.
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
TỪ BI
Thay
mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những
người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả
hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy
vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.
Hôm
nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồn. Lý
do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với
tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng
tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều
biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi
giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn
hoá đó.
Mặc
cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta
bảo tồn được sự thanh thản và an bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có
dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ
về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phải
cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn
tôi khá lâu về sức mạnh và tình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã
rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người
Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được
đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại
tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.
Tôi
xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu
viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm
1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong
khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của
Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể
lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua.
Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng
thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng
từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu
tâm!
Tôi
thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung
Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù
ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không
trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói
hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi,
tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.
Cũng
có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật
giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo,
nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của
thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao.
Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi
đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại
một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng
đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu
linh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được
tâm hồn mình, bình an, thư thái.
Trong
một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn
Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất
hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có
thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.
Làm
thế nào để phát triển sự bình an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản
tánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là
không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản
chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mến và nhân ái. Từ
ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó
chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tế mà mọi người
đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương
thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những
đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái
chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những
căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương
yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ
và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then
chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi
chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là
một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa
trẻ.
Chúng
ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm
tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn
hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang
giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng
những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm
tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau
ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng
thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.
Con
người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ
thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ
thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá
trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động
đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là
ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của
vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta
luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm
hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có
cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta
thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh
thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.
Tư
tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước
tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực và
loại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự
bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng
nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị
vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một
phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà
chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữ và hận thù có
vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm
thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri
thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương
tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ
nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp
trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà
chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cách
đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.
Từ
đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt
đẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng
những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho
dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua,
không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài
trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những
việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng
quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác
bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến ta
thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng
chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ
kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên
trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận
chúng một cách dễ dàng.
Ðể
huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ
trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí
một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ
có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn
toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi
nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương
tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo
thời gian.
Làm
thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường
hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là lòng từ bi, giận dữ có thể là một khía
cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta
phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn
khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận
thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối
cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác
nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân
loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ
khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ.
Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa
rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con
người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách
mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.
Nhìn
vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành
công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có lòng vị tha và tâm hồn
bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc
sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một
cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự
tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó,
nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.
Chúng
ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma
Gandhi, một nhân vật kiệt xuất có ý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống
rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền
giáo dục Tây phương và ý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống
tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa
sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày.
Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất
cả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của
những tình cảm tích cực này của tâm hồn.
Kinh
nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức
độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và
cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn
bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát
triển tâm hồn mình.
Con
người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận
rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người
đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra
không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng
ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình
thân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu
khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng
thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta
chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến
quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ
đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục
tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả
những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã
trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ
của chúng ta.
Một
số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta
bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy
dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng
mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang
có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm
banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt
đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất
khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền
bạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vật
thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.
Từ
bi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn
giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có
tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng
tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các
tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến
khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi
tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau.
Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ được
tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình
tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương
kính.
Tuy
nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con
người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao
truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít
mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ
còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân
loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một
tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắt
nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy
nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm của
họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những
khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía
cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy
trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên
chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất
đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước
khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong
hướng đó!
Thưa
Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi
thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba
mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các
trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra
tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng
cách nào chúng ta có thể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản và
đức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi
giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng
nhất?
Ðiều
quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm
nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết
qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn
ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu
hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình
nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị
vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần
của mỗi cá nhân.
Với
những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tục
chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý
kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên,
cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa
ta đến con đường minh triết?
Tôi
tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra
bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe
chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù
với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên,
là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã
sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những
dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta
vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó
như đã ở trong máu huyết của chúng ta.
Trong
quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật
điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn.
Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữ. Chúng ta dùng
củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng
của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với
cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta
là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên
đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường
khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta
biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một
sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng
ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính
mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo
con đường Trung Ðạo.
Trong
trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và
sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường
mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào
một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống
mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ
thuật ức chế này?
Tôi
nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số
trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi
bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều
này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức
kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta
tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi
đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện
xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy
của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không
có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cực là vô tận.
Tuy
nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức
chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tập
với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là
chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được
nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ
tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng
ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế
được vô minh!