VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ BA
BẤT BẠO ÐỘNG:
MỘT TẤM GƯƠNG ÐỂ NOI THEO
CỘNG ÐỒNG THẾ GIỚI
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, bằng cách gì truyền thống của Phật giáo Tây Tạng có
thể mang lại những lợi lạc cho toàn thể nhân loại?
Trước
tiên, từ cốt lõi của Phật giáo Tây Tạng đã có một truyền thống đối thoại cởi mở
giữa các tông phái khác nhau, một truyền thống mà tôi nghĩ là có thể rất dễ
dàng mở rộng đến các tôn giáo khác. Thế nên những trao đổi hữu ích giữa các tôn
giáo khác biệt trên thế giới với Phật giáo là chuyện khả hữu. Thêm vào đó, ngay
tự bản chất Phật giáo Tây Tạng đã gắn mình vào với các nguyên lý căn bản quan
trọng của tình nhân ái và lòng từ bi. Những ý niệm này tự nhiên sẽ mang đến lợi
lạc cho tâm hồn của bất cứ những ai rộng mở đón nhận những giáo lý như thế.
Bất
hạnh thay, trong lúc này người Tây Tạng chúng tôi đang phải đối diện với một
thực tế cực kỳ đen tối và nguy hiểm, đó là khả năng một đất nước có thể bị xóa
tên trên bản đồ thế giới cùng với nền văn hóa nhất thống và có tính kế thừa của
nó. Người Tây Tạng dĩ nhiên là rất gắn bó với truyền thống văn hoá của mình,
thế nhưng tại Tây Tạng bây giờ họ đã không được cả quyền bày tỏ mối quan tâm
của mình đối với việc bảo tồn nền văn hoá này. Trong khi đó hiện nay tại Ấn Ðộ,
mặc dầu chỉ có khoảng hơn 100,000 dân Tây Tạng lưu vong, chúng tôi vẫn có những
phương pháp tiến bộ nhất để lưu giữ, bảo tồn toàn bộ di sản qúy báu đó. Trong
số dân tỵ nạn lưu vong, chúng tôi đã có đến khoảng 5,000 tăng sĩ và học giả có
khả năng gìn giữ và truyền đạt một cách rõ ràng chi tiết những giáo lý thiết
yếu của nền triết lý và Phật giáo Tây Tạng. Chúng tôi cũng có một số lớn tu
viện đặc biệt dành cho quý vị nữ giới muốn cống hiến đời mình cho cuộc sống tu
hành.
Ngoài
ra phải kể đến hàng ngàn các trung tâm Tây Tạng và đại học rải rác trên khắp
thế giới chuyên nghiên cứu về Phật giáo và Tây Tạng, đã góp phần quan trọng vào
việc bảo tồn và phát huy những kiến thức liên quan đến đất nước và truyền thống
tâm linh của chúng tôi. Khoảng 2,000 trung tâm như thế đã có mặt tại AÂu
Châu, Nam và Bắc Mỹ, Úc Châu, Tân Tây Lan và nhiều quốc gia khác. Tôi cũng nhận
thấy là người Pháp đã tỏ ra rất quan tâm đặc biệt đến nền văn hoá Tây
Tạng. Chuyện này đã gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi ngay từ chuyến viếng
thăm qúy quốc lần đầu tiên và tôi không ngừng hy vọng rằng những mối dây thân
ái này sẽ mãi mãi nẩy nở,kể từ lần đầu gặp gỡ.
Những
sự thực liên quan đến lịch sử Tây Tạng thường hay bị xuyên tạc. Thế nên quả là
điều cần thiết khi chúng ta cho phổ biến các văn bản hàm chứa những sự kiện
trung thực và thông báo cho người Trung Quốc biết điều này. Nó sẽ giúp cho các
sử gia và các học giả có được một hình ảnh sáng tỏ về trạng huống hiện nay một
khi thực tế lịch sử được phơi bày ra ánh sáng. Những tinh thần cực đoan, sai
lầm, bè phái, và cái nhìn lệch lạc vì thế sẽ chẳng mang lại những sức mạnh tích
cực và dĩ nhiên không thể sử dụng chúng cho việc xây dựng tương lai. Chính sức
mạnh của sự thực -đặc biệt là trong thời đại mà số phận của phần lớn các chế độ
độc tài toàn trị lần lượt cáo chung- sẽ giúp chúng ta khả năng một lần nữa cống
hiến đời mình cho lý tưởng đấu tranh của nhân dân Tây Tạng. Những kẻ chuyên
tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật rốt cùng nói cũng chẳng ai nghe; đó là
lý do tại sao tôi phải lập lại lời kêu gọi cái được gọi là thế giới văn minh
hãy sử dụng mọi biện pháp khả hữu để bảo tồn những truyền thống qúy giá của Tây
Tạng.
Thưa
Ngài, gần đây một số lớn các nhà khoa học đã gặp gỡ nhau tại Paris để bày tỏ
mối quan tâm của họ về tình trạng xuống cấp trong lãnh vực môi sinh tại Tây
Tạng. Họ đã đề nghị xếp quốc gia này -toàn bộ hay một vài phần- thuộc về di sản
thiên nhiên và văn hoá của nhân loại. Ngài có nghĩ rằng trong tình huống hiện
nay đề nghị này có thể được chấp nhận và nếu như chuyện đó xảy ra, việc này có
thể được đệ trình lên Trung Cộng để họ chấp thuận?
Vâng!
Tôi nghĩ rằng đây là một ý kiến rất hữu ích và hoàn toàn có thể thực hiện được,
nhưng bên cạnh đó thực tế cho thấy là có những công việc cần phải làm để biến việc
này trở thành sự thực. Tây Tạng là một quốc gia cổ kính lâu đời với rất nhiều
di tích lịch sử không những chỉ có giá trị đối với riêng người Tây Tạng mà cho
cả toàn thế giới. Ðã có rất nhiều tổ chức lên tiếng một cách nghiêm túc về việc
bảo tồn di tích Potala và những thánh tích khác. Nhiều người còn cho rằng ngôi
tự viện chính của thủ đô Lhasa -Tsuglakhang- cần phải được bảo vệ, cũng
như toàn cả khu vực thành phố. Tại sao không? Thủ đô này đã gắn bó chặt
chẽ với cuộc sống chuyển lưu chung quanh Potala. Một điều khá bất hạnh là gần
đây những kiến trúc mới xây dựng đang làm thay đổi dần khu vực gia cư truyền
thống, và khuôn mặt của thủ đô Lhasa đã hoàn toàn bị biến dạng, nếu không nói
là đang ở trong mối hiểm nguy bị xóa sổ. Ðây thêm một lý do nữa để thủ đô Tây
Tạng được đưa vào danh sách các thành phố cần được bảo tồn.
Sự
xâm lăng của Trung Cộng đã gây nên những bất quân bình nào về mặt sinh thái của
Tây Tạng, từ rừng rú, thổ nhưỡng, sông ngòi, v.v...? Tình huống hiện nay
ở Tây Tạng như thế nào?
Ðây
làmột trong những mối ưu tư lớn nhất đang đè nặng lên chúng tôi. Nạn phá
rừng trong một vài khu vực đã làm cho đất đai bị xói mòn, chưa kể là việc tập
trung khai thác một cách bừa bải các mỏ khoáng chất vốn rất phong phú ở xứ
chúng tôi đã làm cho tình trạng này càng thêm nghiêm trọng; theo tài liệu của
nhà cầm quyền Trung Cộng, Tây Tạng có đến 167 loại khoáng chất khác nhau, nhiều
loại rất qúy hiếm.
Nhưng tệ hại nhất là việc Trung Cộng đã sử dụng toàn bộ đất nước chúng tôi làm
bải rác chứa các chất thải nguyên tử của họ. Một điều chắc chắn là khu vực cạnh
hồ Kokonor nay đã trở thành kho chứa toàn bộ vũ khí nguyên tử của Trung Quốc
cũng như một trung tâm nghiên cứu nguyên tử đã được xây dựng trong lòng đất tại
đây mà họ gọi là “Học Viện Thứ Chín”.
Chưa hết, tất cả những yếu tố góp phần vào việc làm xuống cấp môi sinh tại Tây
Tạng, cần phải được kể thêm một sự kiện hiện đang là mối quan tâm sâu xa của
các nhà khoa học tại Ấn Ðộ cũng như trên toàn thế giới: đó là vấn đề ô nhiễm
các giòng sông lớn tại Á Châu do tình trạng nhiễm độc tại đầu nguồn, nói rõ ra
là tại Tây Tạng do Trung Cộng gây ra. Tình huống này đã gây ra một mối hiểm họa
lớn lao cho toàn khu vực và các quốc gia sống dọc theo những dòng sông này, kể
cả Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Ấn Ðộ, Bangladesh, và Hồi Quốc.
Ngài
có nghĩ rằng bản sắc văn hoá của Tây Tạng vẫn còn có thể được duy trì trong một
thời gian lâu hơn trước sự gia tăng quyền lực của Trung Cộng?
Trong
hơn bốn mươi năm bị Trung Cộng xâm chiếm, mặc cho bao nghịch cảnh, tai ương,
người Tây Tạng vẫn không ngừng cố gắng bảo tồn nền văn hoá đã gắn bó mật thiết
lâu đời với họ. Cho dù những tàn phá và hủy hoại gây ra, vấn đề cũng chưa
đến nỗi quá muộn. Niềm hy vọng vẫn không bao giờ tàn lụi, nền văn hoá của chúng
tôi không những có thể được bảo tồn mà còn được phục sinh. Tuy nhiên mối nguy
cơ hàng đầu đối với chúng tôi vẫn là chính sách chuyển dân chiếm đất của Trung
Cộng. Một sự kiện bi thảm là người Tây Tạng bây giờ đã trở thành kẻ thiểu số
ngay chính trên quê hương đất nước của mình. Trong tất cả những thành phố lớn
tại Tây Tạng -Lhasa, Chamdo, Shigatse, Gyangtse- người Trung Quốc nay chiếm hai
phần ba dân số, người Tây Tạng chỉ còn một phần ba. Dĩ nhiên tại những vùng quê
xa xôi hẻo lánh, người ta có thể chỉ thấy toàn là người Tây Tạng. Thế nhưng
tại những vùng đất đai màu mỡ, hoặc cao độ thấp -điều kiện sống tương đối dễ
thở hơn- người Trung Quốc nay đã chiếm một số lượng rất lớn.
Trong
số các tài liệu mà chúng tôi nhận được, có một bản đề ngày tháng Năm, 1992 đề
cập đến một cuộc họp mật của nhà cầm quyền Trung cộng thảo luận về nội dung
liên quan đến việc gia tăng chính sách chuyển dân Trung Quốc vào Tây Tạng. Thưa
Ngài, Ngài có biết đến nội dung của bản tài liệu mật này không, cũng như
những hậu quả trước mắt của nó là gì ?
Ðúng
vậy. Chúng tôi cũng có trong tay bản tài liệu này với đầy đủ mọi chi tiết khiến
chúng tôi tin chắc rằng đây là bản tài liệu thực, có giá trị.
Lúc tôi còn ở Bắc Kinh năm 1954 và đầu năm 1955, trước khi rời khỏi nơi này,
tôi đã đến chào xả giao Chủ tịch Mao Trạch Ðông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu AÂn Lai và
các quan chức cao cấp khác trong chính quyền Trung Cộng. Lưu Thiếu Kỳ lúc đó
được coi như là người lãnh đạo trực tiếp của tôi, bởi vì trong thời gian này
tôi đang là Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Thường Trực của Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc
mà ông ta là Chủ tịch. Trong cuộc đàm luận này, ông ta bảo rằng: “Tây Tạng của
qúy vị có một lãnh thổ rộng lớn, trong khi Trung Quốc của chúng tôi thì dân số
lại đông đảo, chúng ta cần nên thúc đẩymột sự trao đổi hữu ích giữa đôi bên.”
Ðó là một bằng chứng hiển nhiên cho thấyrằng họ đã có tham vọng từ hồi đó, muốn
tiến hành một chính sách chuyển dân lớn lao vào Tây Tạng.
Kể
từ khi đất nước của chúng tôi bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, dân số Trung
Quốc tại Tây Tạng đã không ngừng gia tăng năm này qua năm khác, đặc biệt là
trong những năm gần đây, được núp bóng dưới chiêu bài mệnh danh là chính sách
“mở cửa” kinh tế. Bất cứ lúc nào mà người Trung Quốc nghe được nơi nào dễ sống,
họ lại lũ lượt kéo đến với đông đủ gia đình. Hãy lấy thủ đô Lhasa, một thành
phố lớn của Tây Tạng, nơi mà cuộc sống không đến nỗi khó khăn như những nơi
khác, làm một thí dụ cụ thể: Người Trung Quốc ở đây hiện nay đã chiếm một tỷ lệ
đông đảo hơn người Tây Tạng, đó là một sự thực mà chính quyền Trung Cộng luôn
lên tiếng phủ nhận. Họ chính thức công bố là chỉ có khoảng 10,000 người Trung
Quốc tại Lhasa. Thế nhưng thực tế lại hoàn toàn khác biệt. Không phải là 10,000
mà có đến hơn 100,000 người Trung Quốc hiện đang sinh sống tại Lhasa, trong khi
dân số Tây Tạng tại đây không quá 50,000 người. Thực trạng là như thế. Ở
một vài khu vực hẻo lánh thuộc lãnh thổ Tây Tạng, dân Trung Quốc còn đông gấp
bội dân bản xứ. Tình huống này đã gây nên những bức xúc lo âu cho số người Tây
Tạng ít ỏi còn sót lại trong khu vực, khi mà đồng bào của họ đã bỏ đi đến những
vùng có đông đảo người Tây Tạng sinh sống. Dù trường hợp nào đi nữa thì bây giờ
tại Tây Tạng cũng đã có đến hơn 7 triệu dân Trung Quốc so với khoảng 6 triệu
người bản xứ.
Bạn
có biết là những nhà cầm quyền của chế độ độc tài toàn trị thường sử dụng nhiều
thủ thuật, chẳng hạn như trên mặt công luận thì họ cho công bố những chính sách
đẹp đẽ nhưng chẳng bao giờ áp dụng, trong khi đó những chính sách mà họ đem ra
thực hiện một cách mạnh mẽ thì chẳng bao giờ công bố trước công luận? Ðó là
trường hợp dân số Trung Quốc tại Tây Tạng tăng vọt hằng ngày, trong khi chính
quyền thì cứ một mực phủ nhận; đó cũng là trường hợp người dân bản xứ Tây Tạng
bắt buộc phải có giấy đi đường mới được quyền di chuyển trong đất nước của mình
và thường là có nguy cơ bị trục xuất ra khỏi Lhasa, không cho đăng ký hộ khẩu
cư trú tại đây. Nếu nhà cầm quyền Trung Cộng không có ý đồ trong việc cho
chuyển dân vào Tây Tạng, tại sao họ lại không chấm dứt thảm kịch này? Thế nên
ta có đủ lý lẽ để tin chắc rằng nhà nước Trung Cộng đang âm mưu tổ chức việc
tái định cư dân của họ đang ngày càng gia tăng ngay tại chính quốc.
Tôi
xin được nói thêm đôi điều. Là một con người, tôi nhận thức rằng nhân loại nhìn
chung như là một thực thể thống nhất. Thế cho nên đối với vấn đề chuyển dân
này, ở một mức độ nào đó, người Tây Tạng có thể chấp nhận được nếu Trung Quốc
thực hiện trong tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Trong trường hợp như
thế, chúng tôi sẵn sàng chia xẻ cái lãnh thổ rộng lớn này với người Trung
Quốc, hiện đang gặp khó khăn trướ c tình trạng mật độ dân cư đông đúc và yếu
kém về mức sống kinh tế. Tuy nhiên kể từ lúc xâm lăng Tây Tạng, đến nay đã hơn
bốn mươi năm, chính sách xâm lăng dân số này luôn đi đôi với sự tàn phá rất
nhiều khu vực và như thế nó chẳng bù đắp được chút nào cho việc gọi là phát
triển đất nước chúng tôi. Ngài Ban Thiền Lạt Ma, người bị tất cả mọi người cho
là thân Trung Cộng nhưng thực tế không phải vậy, đã công khai tuyên bố hai ngày
trước khi Ngài viên tịch, rằng sự phát triển kinh tế khiêm tốn do Trung Quốc
mang lại không thể nào đền bù được những phá hoại lớn lao mà họ đã gây ra.
Trong hơn bốn mươi năm qua nhân dân Tây Tạng đã gánh chịu những thống khổ
vô bờ. Dĩ nhiên, trên văn kiện chính thức của Trung Quốc, họ vẫn gọi chúng tôi
là những người thiểu số Trung quốc, là những “anh em chị em” thân thiết của họ!
Họ vẫn thường liên hệ hình ảnh Trung Quốc như là một đại gia đình gồm có năm
anh em. Nhưng trong trường hợp này, đáng buồn thay người anh cả đã không ngớt
hành hạ, đày ải người em nhỏ của mình! Tôi đang đề cập đến những sự kiện lịch
sử có thực.
Sự
gia tăng dân số Trung Quốc tại Tây Tạng hiển nhiên đã gây nên một tình trạng
cực kỳ căng thẳng. Khi một số lượng lớn dân Trung Quốc tăng lên ở một vùng nào
đó, sự căng thẳng phát khởi không phải chỉ thuần túy vì vấn nạn công ăn việc
làm mà ngay cả trên các địa hạt khác chẳng hạn như giáo dục hay y tế, những
lãnh vực mà sức ép của dân Trung quốc vốn chiếm đa số đã gây nên những hệ quả
nhức nhối. Bên cạnh đó, những ngân khoản trên nguyên tắc được sử dụng vào việc
phát triển Tây Tạng về các mặt phục vụ công cộng, giáo dục, y tế, trong thực tế
đa phần đều rơi vào túi của người Trung Quốc.
Trong
số những vấn đề căng thẳng khác phải kể đến lãnh vực môi sinh. Như qúy vị đã
biết, theo truyền thống Tây Tạng cấm săn bắn chim chóc, tôm cá. Người Tây Tạng
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều cố gắng tránh không dự phần vào những hoạt
động này. Sự đi nhiễu chung quanh những khu vực thánh địa chẳng hạn như Potala
hay ngôi đại tự tại Lhasa cũng đã tạo nên căng thẳng. Phong tục của người Tây
Tạng là đi theo chiều kim đồng hồ trong khi đó người Trung Quốc lại cố tình đi
theo hướng ngược lại. Những hình thức hạ nhục kiểu này chỉ làm tăng thêm mối
căng thẳng và bất mãn trong lòng dân chúng Tây Tạng. Nhà cầm quyền Trung Cộng
thường tỏ ra chẳng hề đếm xỉa đến những vụ sát nhân nếu do người Tây Tạng tự
giết lẫn nhau, trong khi đó nếu chẳng may họ đụng đến người Trung Quốc dù chỉ
là một vụ ẩu đả thường cũng vẫn bị coi là phạm một đại trọng tội và bị nghiêm
trị. Ðấy là chưa kể đến không biết bao nhiêu những vụ vi phạm nhân quyền đã
diễn ra trên đất nước Tây Tạng.
Sự
gia tăng không ngừng những vụ việc như thế -dù vô tình hay cố ý- là một bằng
chứng hiển nhiên của sự diệt chủng văn hoá. Tôi đã cáo giác việc này và không
ngừng lập đi lập lại bất cứ lúc nào có cơ hội. Ngay khi chúng tôi thiết lập
được sự liên lạc với nhà nước Trung Cộng, trong bản Kế Hoạch Hoà Bình Năm-Ðiểm
gởi đến họ, tôi đã chính thức yêu cầu phải đình chỉ ngay việc di dân Trung Quốc
vào Tây Tạng. Thế nhưng chính quyền Trung Cộng đã có vẻ như không có ý
định từ bỏ chính sách này, sự hiện hữu của một kế hoạch mà họ luôn phủ
nhận. Họ luôn tuyên bố trước dư luận rằng Tây Tạng rất thoả mãn được là
vùng tự trị của Trung Quốc. Và như quý vị đã thấy, “vùng tự trị” mà họ nói tới
đã không còn mang một ý nghĩa nào cả.
Thưa
Ngài, công việc sửa soạn để bắt đầu thảo luận với nhà nước Trung Cộng về vấn đề
độc lập Tây Tạng nay đã đi đến đâu?
Trong
hoàn cảnh hiện nay, tôi tự thấy có bổn phận phải làm tất cả những gì có thể làm
được để bảo vệ nền độc lập của quê hương đất nước tôi. Trong chiều hướng
đó, tôi nghĩ rằng phương cách tốt nhất để đạt đến mục tiêu này là trực tiếp
thương thuyết với Trung Quốc. Tuy nhiên, mười bốn năm trước đây khi chúng tôi
thành công trong việc tạo được mối liên lạc với họ, qua trung gian của phái
đoàn của tôi; Ðặng Tiểu Bình đã đặt ra một điều kiện quan trọng làm nền tảng
cho những cuộc thương thuyết, đó là có thể thảo luận tất cả mọi vấn đề ngoại
trừ sự độc lập của Tây Tạng, cho dù mọi người đều thấy rằng đứng ở trên
bất cứ quan điểm nào, Tây Tạng vẫn là một quốc gia độc lập như đã được minh
chứng qua văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử của nó, và thực tế là quốc gia đó hiện nay
đang nằm dưới ách xâm lược của ngoại quốc.
Trên
căn bản những lời tuyên bố của Ðặng Tiểu Bình và để phù hợp với những điều kiện
thực tiễn, tôi đã tạm thời cố gắng thực hiện những cuộc thương thuyết với họ
trên quan điểm xem Tây Tạng như là một lãnh thổ tự trị của Trung Quốc. Tôi đã
không đòi hỏi một sự chia cắt hoàn toàn nào giữa hai quốc gia. Tôi đã
tuyên bố với nhà nước Trung Cộng rằng những gì của quá khứ nay hãy cho vào quá
khứ, kể từ bây giờ tôi đang hướng vọng về tương lai. Chúng tôi hiện vẫn lưu giữ
toàn bộ các tài liệu, văn bản liên quan đến các cuộc thảo luận đó, mà nội dung
cho thấy là về phía chúng tôi, tôi đã cố gắng đến mức nào khi phải chấp nhận
những nhượng bộ tối đa. Căn cứ vào những thực trạng và bối cảnh chính trị hiện
tại, tôi nghĩ rằng cách thức tiếp cận của mình là thực tiễn nhất, nếu không nói
là duy nhất có thể chấp nhận được. Ðó là lý do tại sao mà tôi thường gọi đó là
đường lối thương thuyết Trung Ðạo. Ngoài ra đối với bất cứ những mục tiêu tương
lai nào khác, tôi vẫn luôn nhấn mạnh rằng chúng hoàn toàn tùy thuộc vào sự
quyết định của nhân dân Tây Tạng, và kết quả dĩ nhiên cũng sẽ tùy thuộc rất lớn
vào thái độ của Trung Quốc.
Ðể
trả lời cho Kế Hoạch Hoà Bình Năm-Ðiểm của tôi, nhà cầm quyền Trung Cộng trong
những năm đầu của thập niên tám mươi đã nêu đề nghị rằng tôi nên hồi hương về
Tây Tạng. Tôi đã trả lời với họ rằng vấn đề hồi hương đâu có phải là vấn đề
quan trọng thực sự, mục tiêu chính yếu nhằm đạt đến chính là sự bảo vệ và gìn
giữ các quyền căn bản và nền văn hóa của sáu triệu dân Tây Tạng. Bao lâu mà
Trung Quốc không hề làm bất cứ điều gì để giải quyết vấn nạn này thì họ đừng
bao giờ nói đến chuyện hồi hương của tôi. Còn nếu họ muốn nói chuyện với Ðạt
Lai Lạt Ma chỉ vì vấn đề hồi hương không mà thôi, tất cả mọi nỗ lực sẽ chẳng đi
đến đâu cả. Còn mặt khác, nếu họ muốn thật tình thảo luận nghiêm chỉnh về những
vấn đề then chốt của Tây Tạng, phần tôi, tôi sẽ luôn sẵn sàng đặt mình dưới sự
sắp xếp của họ, bất cứ thời điểm nào, ở nơi đâu mà họ chọn lựa để gặp gỡ. Ngoài
ra, chính tôi cũng đã công khai đưa ra hai giải pháp liên quan đến vấn đề này,
mà trong đó một giải pháp nêu đề nghị cần vận động sức mạnh của áp lực quốc tế
ngay lập tức đối với nhà nước Trung Cộng, mà mục tiêu là thúc đẩy họ bắt đầu
thực hiện những cuộc thương thuyết có ý nghĩa càng sớm càng tốt. Công việc
trước mắt của tôi hiện nay là dồn mọi nỗ lực cho giải pháp này.
Chúng
ta cũng đừng nên quên rằng nhà nước Trung Cộng luôn luôn quan niệm rằng Tây
Tạng là một phần lãnh thổ không thể tách rời của họ; thế nên họ đã dành cho
mình cái quyền tự do làm bất cứ điều gì mà họ muốn đối với Tây Tạng. Thế nhưng
đứng trên quan điểm lịch sử, đây là một sai lầm nghiêm trọng. Năm 1914, khi
thỏa ước Simla được ký kết, thiết tưởng tôi không cần phải nêu rõ chi tiết ở
đây, chính phủ Anh đã công nhận Tây Tạng là một quốc gia tự trị -điều này đã
làm cho Trung Quốc từ chối phê chuẩn. Chính phủ Anh chỉ chấp nhận quyền bảo hộ
của Trung Quốc đối với Tây Tạng với điều kiện Trung Quốc tôn trọng quyền tự trị
của Tây Tạng. Chính phủ Ấn Ðộ cũng đã công nhận Tây Tạng như là một vùng tự trị
chứ không phải là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Theo các chuyên gia Anh, tự
trị là ngôn ngữ để chỉ một thực-tế độc lập. Năm 1954, trong chuyến thăm viếng
Bắc Kinh, chính Mao Chủ tịch đã đích thân bảo tôi rằng đã có một thời TâyTạng
là một quốc gia hùng mạnh từng xâm chiếm Trung Quốc, và bây giờ khi Tây Tạng
trở nên yếu kém hơn, Trung quốc thấy có nghĩa vụ phải giúp đỡ chúng tôi. Ông ta
còn hứa hẹn rằng Trung Quốc sẽ triệt thoái khỏi Tây Tạng sau khi giúp đất nước
này đạt đến một mức độ phát triển nào đó. Năm 1956, khi tôi còn ở Ấn Ðộ, đồng
thời với cuộc thăm viếng của Chu AÂn Lai, ông ta đã tuyên bố với Thủ tướng Ấn
Ðộ, Jawaharlal Nehru, rằng nhà nước Trung Cộng không xem Tây Tạng như là một
tỉnh của Trung Quốc, mà là một “trường hợp cá biệt”. Người ta thấy không bao
giờ Trung Quốc đi xâm chiếm các lãnh thổ khác lại tuyên bố như thế.
Mặc
dù được soạn thảo dưới sức ép nặng nề, một thỏa ước mười-bảy-điểm cũng đã được
ký kết giữa chúng tôi và Trung Quốc. Với tất cả những sự kiện lịch sử đã
được minh chứng, quả là điều hoàn toàn sai lầm khi xem Tây Tạng là một phần
lãnh thổ của Trung Quốc kể từ thế kỷ thứ 13 như họ đã từng khẳng định. Ðó là lý
do khiến tôi nghĩ rằng kể từ khi chính Trung Quốc tự mình tuyên bố rằng Tây
Tạng là một “trường hợp cá biệt”, cộng đồng quốc tế cần phải có những hành động
khả dĩ làm sáng tỏ vị trí lịch sử của Tây Tạng trong quá khứ, nghiên cứu vấn đề
dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế cũng như lưu ý đến những khía cạnh
khác biệt sâu xa giữa hai nền văn hóa Trung Quốc và Tây Tạng. Không có ai khẳng
định được rằng ngôn ngữ Tây Tạng là tiếng Trung Hoa. Cũng thế, khi người ta nói
đến Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tây Tạng là bao hàm ý
nghĩa phân biệt đó. Thế nhưng mặc cho những sự kiện này, Trung Quốc luôn luôn
muốn biến ngôn ngữ Tây Tạng thành ngôn ngữ Trung Quốc, đồng hoá tôn giáo của
chúng tôi thành tôn giáo của họ. Dĩ nhiên, điều này không thể nào phù hợp được
với thực tế. Trong một hội nghị về Tây Tạng nhóm họp hồi gần đây, các chuyên
gia quốc tế đã tuyên bố rằng, trên căn bản của quyền tự quyết, Tây Tạng có đầy
đủ thẩm quyền để quyết định tương lai vận mệnh của mình. Ðây là vấn đề hoàn
toàn sáng tỏ đối với tất cả mọi người.
Ngài
là một vị lãnh đạo tinh thần và đồng thời cũng là lãnh tụ của một quốc gia hiện
đang gánh chịu đau thương dưới ách xâm lược hơn bốn mươi năm qua. Là một người
đã từng có cơ hội gặp gỡ khá nhiều những khuôn mặt chính trị trên khắp thế
giới, có khi nào Ngài cảm thấy oán giận khi thấy chỉ có một số rất ít người lên
tiếng ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng? Ngài có nghĩ rằng các nhà lãnh đạo các
quốc gia Tây phương hiện nay có thể đang có khuynh hướng giúp đỡ Tây Tạng để
quốc gia này khỏi bị xóa bỏ hoàn toàn bởi một lân bang hùng mạnh?
Tây
Tạng hiện nay đang phải đương đầu với rất nhiều nỗi khó khăn, thế nhưng ta phải
nhận thấy một điều là trong thời đại ngày nay các quốc gia sống cô lập như
trước đây là một hiện tượng rất hiếm hoi. Chính vì tình trạng sống cô lập của
chúng tôi mà khi những vấn nạn xảy ra do việc Trung Cộng xâm lăng Tây Tạng đã
không được mấy ai để ý tới. Quốc gia của chúng tôi là nạn nhân của sự xâm lược,
và từ quan điểm này, vấn đề Tây Tạng trên một phương diện nào đó có thể xem như
là một vấn đề cổ điển. Những vấn nạn có tính cách khẩn thiết đang xảy ra
hàng ngày trên mặt địa cầu này. Hơn thế nữa, dưới lăng kính kinh tế, Tây Tạng
thoạt trông có vẻ không có gì quan trọng đáng chú ý cả.
Tuy nhiên nếu bạn nhìn vấn đề một cách tổng quát trên quan điểm toàn cầu, sự
bày tỏ mối quan tâm của nhân dân trên thế giới đối với chính nghĩa Tây Tạng
ngày càng có dấu hiệu rất khích lệ. Từ năm 1959 cho đến những năm của thập niên
60, đã có rất nhiều quốc gia lên tiếng ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng trên
diễn đàn Liên Hiệp Quốc. Trong thời điểm đó, sự ủng hộ của phần lớn các quốc
gia này như là một sự bày tỏ thế đứng đối nghịch của mình đối với khối cộng
sản. Tuy nhiên kể từ những năm gần đây cho đến bây giờ, tôi nghĩ rằng nhiều
quốc gia đã bày tỏ sự ủng hộ của mình được phát xuất từ mối thiện cảm nhiều
hơn, cũng như dựa trên căn bản của những sự thật không thể phủ nhận
được, một tình huống tuy khá phức tạp nhưng hoàn toàn trung thực.
Những
hoạt động trên lãnh vực vận động quốc tế của Ngài thường nhắm đến giới truyền
thông, các nhân vật nổi tiếng, những lãnh tụ các quốc gia trên khắp thế giới.
Những nỗ lực đó có tạo nên những kết qủa cụ thể nào đối với Trung Quốc, và đưa
đến sự cải thiện tình huống tại Tây Tạng hay không?
Tôi
rất hoan hỷ trước sự quan tâm của giới truyền thông mà thông qua họ, đã tạo
được mối cảm thông của nhân dân trên thế giới đối với chính nghĩa của Tây Tạng,
và tôi cho rằng sự chiếu cố của họ là điều rất quan trọng. Sự kiện chính nghĩa
của chúng tôi ngày càng được nhìn nhận sẽ làm cho nhà nước Trung Cộng phải tỏ
ra biết điều hơn trong việc đối xử với nhân dân Tây Tạng cũng như quan tâm hơn
đến các nhu cầu của họ. Có ý kiến cho rằng thái độ kiến hiệu nhất là cứ việc
chống đối hoặc công kích Trung Quốc một cách thả dàn. Rất tiếc đây không phải
là thái độ của chúng tôi. Chỉ mới hai năm trước đây, nhà cầm quyền Trung Quốc
từ chối không công nhận kể cả phản bác lại bất cứ những lời tuyên bố nào liên
quan đến vấn đề nhân quyền tại Trung Quốc, cho rằng đó là chuyện nội bộ của họ.
Thế nhưng dần dần họ cũng đã phải tuân thủ và cho công bố một tập tài liệu được
gọi là “Bạch Thư “ về tình trạng nhân quyền ở trong nước, và dưới sức ép của
quốc tế họ đã phải đồng ý cho phép một vài phái đoàn hiện diện tại Trung Quốc
và Tây Tạng để theo dỏi vấn đề nhân quyền có được tôn trọng hay không.
Tôi đã làm tất cả mọi chuyện trong phạm vi quyền hạn của mình, cố gắng tạo điều
kiện để mở ra những cuộc thương thảo hợp tình hợp lý giữa đôi bên, nhưng phía
Trung Quốc cứ luôn tìm cách từ chối. Thế nhưng, áp lực bền bỉ của quốc tế đã
buộc họ, ít nhất là không còn dấu diếm được với thế giới bên ngoài rằng những
cánh cửa đã mở rộng cho những cuộc thương thuyết với Ðạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên
mặc dù đã có những nỗ lực như thế, tình hình tại Tây Tạng cho đến nay cũng
không cải thiện được bao nhiêu.
Ngài
đề cao đường lối bất bạo động và là một khuôn mặt quen thuộc tại phương
Tây, thế nhưng Ngài có nghĩ rằng những gì thực sự đang xảy ra đã quá đủ? Mọi
người đều có ấn tượng rằng những cố gắng đó chẳng mang lại đổi thay gì tại Tây
Tạng và mối nguy cơ diệt chủng đã gần kề. Thưa Ngài, Ngài chủ trương một hành
động chính trị quốc tế như thế nào trước tình huống này?
Nếu
tình huống hiện tại đã được tiếp tục kéo dài trong vòng mười hay mười lăm năm
qua, ta có thể nói rằng mọi chuyện nay đã muộn màng, thế nhưng ngay bây
giờ ta vẫn thấy có những cơ may là đường lối đó sẽ thành công. Ðó là lý do mà
tôi đã không ngừng kêu gọi tất cả các quốc gia, chính phủ trên thế giới hãy bày
tỏ những thái độ tích cực hơn. Là một Phật tử, chúng tôi thường có thói quen
nói rằng mình nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp-tức giáo lý Phật dạy,
và Tăng -tức cộng đồng tăng sĩ. Chúng tôi nay có thể thêm vào một ngôi thứ tư:
Cộng đồng quốc tế. Phật, Pháp, và Tăng có thể là những danh từ đầy bí ẩn đối
với qúy vị, nhưng khi nói đến mức độ giúp đỡ một cách tích cực, cộng đồng quốc
tế có thể trở thành chỗ nương tựa thứ tư mà mọi người đều hết sức cần đến.
Những áp lực tinh thần tác động lên nhà nước Trung Quốc đang mở ra một vết nứt
rạn mà từ đó người ta có thể nghe được tiếng vọng lại, bày tỏ nỗi khát vọng
được đối thoại với Ðạt Lai Lạt Ma. Những áp lực tinh thần này sẽ càng được củng
cố thêm bởi những áp lực về kinh tế.
Ngài
có nghĩ rằng việc Ủy Hội Thế Vận Quốc Tế bác khước đơn xin tổ chức Thế Vận Hội
năm 2000 tại Bắc Kinh có tạo nên những ảnh hưởng về chính sách đối nội của
Trung Quốc, có nghĩa là dân Trung Quố csẽ được tự do hơn?
Theo
thiển ý của tôi, có hai cách để nhìn vấn đề. Thứ nhất, sự phát triển những quan
hệ hữu nghị với Trung Quốc cùng việc gia tăng trợ giúp kinh tế sẽ khuyến khích
tiến trình dân chủ hóa tại quốc gia này. Trung Quốc là một quốc gia tối cổ và
họ rất muốn được đăng cai tổ chức Thế Vận Hội. Ðây là một quan điểm hoàn toàn
được biện minh, thế nhưng nên hiểu rằng bên cạnh đó nguyên nhân chính vẫn là
vấn đề kinh tế. Quan điểm thứ hai cho rằng quả là điều đáng thương cho những
người đang đấu tranh cho dân chủ tại Trung Quốc, và đang chống lại việc tổ chức
Thế Vận Hội Bắc Kinh, nếu Trung Quốc được chấp thuận, họ sẽ mất tin tưởng và
xuống tinh thần. Thế nên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế muốn khích lệ họ,
cần phải đáp ứng bằng những tín hiệu tương xứng. Sau khi cân nhắc giữa hai biện
pháp ủng hộ lẫn chống đối, tôi đi đến kết luận rằng trong những điều kiện hiện
tại, tốt hơn hết là nên dời lại ý định cho tổ chức Thế Vận tại Trung Quốc vào
một dịp khác. Tuy nhiên, dù ở trường hợp nào đi nữa thì mọi chuyện nay cũng đã
được quyết định rồi.
Ngài
có nghĩ rằng phép lạ kinh tế đang xảy ra tại Trung Quốc sẽ làm cho Tây Tạng ít
còn có cơ hội dành lại độc lập? Theo Ngài thì tiến trình dân chủ hóa tại
Trung Quốc đến mức độ nào có thể được coi như mang lại những thuận lợi cho Tây
Phương?
Sự
phát triển kinh tế của Trung Quốc về lâu về dài có thể mang lại một vài khía
cạnh tích cực cho Tây Tạng, bởi vì sự cải thiện những điều kiện sinh sống vẫn
luôn được coi là một yếu tố đem phúc lợi cho con người. Hơn thế nữa, đây là một
điều rất quan trọng đối với nhân dân Trung Quốc cũng như toàn thế giới vì nó
thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa tại Trung Quốc, một quốc gia có dân số đông đảo
nhất trên qủa đất này. Chúng ta đã chứng kiến những biến cố bi thảm tại Thiên
An Môn, một bằng chứng cho thấy là nhân dân Trung Quốc không ngừng nuôi hy vọng
được sống dưới một thể chế dân chủ. Vấn đề là nền dân chủ này sẽ từ đâu
đến? Ai là người thổi lên ngọn lửa này?
Một
cách tổng quát tôi nghĩ rằng dân chúng Trung Quốc có thể được chia thành ba
giai tầng khác nhau. Trước hết là thành phần lãnh đạo và một số người trung
thành với đảng Cộng sản, những người luôn luôn muốn bám vào quyền lực bằng mọi
giá. Thế nên một khi cảm thấy quyền lực của mình bị hăm dọa, họ sẽ không ngần
ngại nổ súng vào đám đông. Kế đến là thành phần trí thức, sinh viên học sinh,
những người đang đứng đàng sau tạo tác động tinh thần lên các phong trào vận
động dân chủ. Sau rốt là đại bộ phận quần chúng Trung Quốc. Nếu như các chính
phủ trên thế giới chỉ biết nghĩ đến lợi nhuận cho riêng mình, mối nguy cơ lớn
nhất mà ta có thể thấy được là nhóm thiểu số cầm quyền hiện nay sẽ vẫn tiếp tục
ngự trị trên quyền lực, các lực lượng dân chủ sẽ mất niềm tin và xuống tinh
thần. Một quốc gia như Trung Quốc, vừa bị sức ép bởi nạn nhân mãn lại được vũ
trang bằng các vũ khí nguyên tử, bao lâu mà chế độ độc tài toàn trị hiện nay
vẫn còn nắm giữ quyền lực, tiếp tục sản xuất và chất chứa vũ khí, họ sẽ còn gây
nên mối quan tâm sâu xa đối với toàn thế giới. Ðó là lý do tại sao đặt ra vấn
đề trách nhiệm của toàn thế giới là phải giúp đỡ các lực lượng dân chủ tại
Trung Quốc cũng như ở các nơi khác.
Ngài
đã đoạt giải thưởng Nobel về Hoà Bình năm 1989. Ðiều này có giúp ích gì trong việc thực hiện lý tưởng của Ngài không?
Sự
kiện tôi đoạt giải thưởng Nobel về Hoà Bình chắc chắn đã góp phần rất nhiều
trong việc gây chú ý dư luận về chính nghĩa đấu tranh của Tây Tạng. Người ta
luôn luôn nói rằng vị Ðạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng đã nhận được vinh dự này,
không ai nói đó là “ông lạt ma Trung Quốc” cả!
Ngài
đang lưu lại tại Pháp trong suốt ba tuần lễ này, xứ sở mà bản Tuyên Ngôn Nhân
Quyền được soạn thảo. Ngài nghĩ như thế nào về sự tiếp rước của chính phủ Pháp?
Chắc là rất lạnh nhạt?
Trước
tiên xin được nói với qúy vị rằng, tôi vô cùng hân hoan được tiếp xúc với nhân
dân Pháp; đó là điều tối quan trọng đối với tôi, bởi vì lý do chính cũng như
bản chất cuộc viếng thăm xứ sở này trước tiên là vấn đề tinh thần. Những cuộc
thảo luận, trao đổi giữa chúng tôi và nhân dân Pháp rất là phong phú và rất có
giá trị đối với tôi. Tôi cũng xin được giải thích thêm đôi chút về vị trí của
mình, khi thăm viếng bất cứ một quốc gia nào, nếu những nhà lãnh đạo bày tỏ ý
hướng muốn gặp gỡ, tôi rất hân hoan được tiếp xúc, trao đổi ý kiến, thảo luận
với họ. Tuy nhiên trong trường hợp những cuộc tiếp xúc như vậy có thể gây nên
những vấn đề khó xử cho họ, tôi không bao giờ muốn gặp họ ngõ hầu tránh được
những phiền toái có thể gây ra cho chính quốc gia đó.
Việc thành lập một nhóm nghiên cứu về Tây Tạng trong Quốc Hội Pháp là một chỉ
dấu rất khích lệ, cho thấy đã có sự gia tăng mối quan tâm của họ đối với chính
nghĩa đấu tranh của chúng tôi. Ngoài ra gần đây cũng phải kể đến một thông điệp
lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ chính nghĩa của Tây Tạng qua một bản tuyên ngôn mang chữ
ký của hàng trăm khuôn mặt nổi tiếng trong giới nghệ thuật và khoa học Pháp.
Tuy nhiên chúng tôi cần được ủng hộ nhiều hơn nữa.
Ngài
luôn luôn tin tưởng vào bản tánh thiện lương, nhân hậu của con người. Trên một
phương diện nào đó, phải chăng niềm tin này đã trở nên lỗi thời trong thời đại
của chúng ta? Tôn giáo của Ngài đặt căn bản trên chủ trương bất bạo động,
Ngài có nghĩ rằng một ngày nào đó người ta cần phải đoạn tuyệt với truyền thống
bất bạo động này?
Không,
không, và tuyệt đối không! Tôi tin tưởng hoàn toàn vào những giá trị của bất
bạo động. Những biến cố gần đây chẳng hạn như sự cáo chung của các chế độ độc
tài Marcos của Phi Luật Tân, Pinochet của Chí Lợi, cũng như những thay
đổi lớn lao tại Mạc Tư Khoa và các quốc gia khác đã cho thấy một điều rất rõ
ràng rằng, cốt lõi những cuộc nổi dậy của quần chúng này không phải là kết qủa
của bạo động, không hề phải dùng đến vũ khí, mà là kết quả của hành động bất
bạo động. Gần đây hơn chúng ta thấy hai phe Palestine và Do Thái đã chịu gặp gỡ
nhau trong tinh thần hoà giải sau những năm tháng chất chứa hận thù được thể
hiện qua những hành động cực kỳ bạo động nhắm vào nhau, và họ có khả năng chấm
dứt những điều oan trái đó. Ðối với tôi, tất cả những điều này là những chỉ dấu
tích cực của chủ trương bất bạo động.
Người
ta cũng nhận ra rằng bất bạo động là phương thức kiến hiệu và đúng đắn nhất để
giải quyết các mối xung đột. Dùng bạo động để trả lời bạo động thường dẫn đến
những vấn nạn chẳng hạn như những sự kiện đã xảy ra tại Bosnia, và những
nỗi khổ đau sẽ không bao giờ chấm dứt. Nếu bạn có thể hỏi được tất cả những
người trong cuộc của tấn thảm kịch này, đâu là lý do gây nên những hành động
đầy bạo động như thế, tôi tin chắc là họ sẽ không tìm ra được một lời giải
thích nào sáng tỏ. Con người bị rơi vào những tình huống như vậy là do họ không
còn kiểm soát được tình cảm của mình hoặc trong tâm hồn họ không còn chỗ cho
những suy nghĩ hợp lý. Chắc qúy vị đã hiểu điều này? Ðối với tôi, những tình
huống như thế chỉ củng cố thêm lòng tin của tôi đối với chủ trương bất bạo
động.
Quốc
gia của Ngài đã bị Trung Cộng xâm chiếm hơn bốn mươi năm qua. Ngài có tin chắc
rằng chỉ với đường lối bất bạo động không thôi là đủ để cho Tây Tạng giành lại
được độc lập? Nếu đúng như thế, thì lúc nào?
Chúng
ta đừng nên bao giờ quên rằng Tây Tạng và Trung Quốc luôn luôn là lân bang với
nhau và hiện trạng này cần phải được duy trì mãi mãi. Ðể có thể đảm bảo cho mối
giao hảo lân bang được an bình và hòa điệu trong tương lai, điều cần thiết là
những vấn nạn chia cách chúng tôi trong hiện tại cần phải được giải quyết bằng
đường lối bất bạo động. Nếu chúng ta cố gắng giải quyết chúng bằng phương thức
bạo động, những cảm giác oán hờn sẽ tồn tại mãi giữa hai dân tộc, và như vậy
thật khó mà hòa hợp. Dĩ nhiên phải cần một thời gian lâu dài hơn người ta mới
có thể đạt đến mục tiêu bằng phương thức bất bạo động, thế nhưng tôi tin rằng
đường lối tiếp cận này sẽ mang lại những kết quả tích cực và ổn định nhất.
Thế
giới đang trên đường tiến hoá. Dân chủ đã và đang được thiết định tại một số quốc
gia -Phi Luật Tân, Chí Lợi, khối Cộng sản cũ- tất cả đều không thông qua đường
lối bạo động mà là do ý nguyện của dân chúng được tác động bởi tinh thần bất
bạo động. Trong trường hợp của chúng tôi, do chọn lựa thái độ yêu chuộng hoà
bình, rất nhiều người Trung Quốc nay đã bày tỏ mối thiện cảm đối với chính
nghĩa của chúng tôi mà kết quả là họ đã công khai bày tỏ sự ủng hộ của mình đối
với cuộc đấu tranh vì độc lập của nhân dân Tây Tạng. Cũng vì lý do này mà bây
giờ rất nhiều quốc gia đã chính thức lên tiếng ủng hộ chúng tôi hơn lúc trước.
Tôi luôn luôn trình bày với dân chúng Tây Tạng rằng, bằng phương thức thực hành
bất bạo động để xây dựng nền móng dân chủ cho Tây Tạng tương lai, chúng ta
không những chỉ nhằm đạt đến mục đích cho riêng mình, mà còn trở thành một tấm
gương cho toàn thể thế giới noi theo. Tìm kiếm hoà bình qua đường lối bất bạo
động chính là sự kết hợp giữa trí tuệ và các phương tiện thiện xảo.
Phải
chăng thanh niên Tây Tạng ngày càng có khuynh hướng chủ trương dùng bạo động để
giải phóng Tây Tạng? Ngài phải nói với họ như thế nào?
Vâng,
mối hiểm nguy này hiện hữu cả trong lẫn ngoài nước, không phải chỉ giới trẻ
không thôi mà ngay cả những người lớn tuổi hơn, bởi vì nhà nước Trung Cộng hình
như đã không muốn hiểu ngôn ngữ của sự thật và công lý. Dĩ nhiên khi có nhiều
người nhắc nhở tôi rằng tôi đã lãnh đạo một cuộc đấu tranh bất bạo động trong
suốt bốn chục năm mà không mang lại một kết quả cụ thể nào cả, tôi sẽ chẳng
biết phải trả lời như thế nào. Một sự thực mà tôi cũng nhìn nhận là đã có lúc
chính tôi cũng mất đi niềm hy vọng. Trong những lúc như thế, tôi nghĩ là hơn
lúc nào hết, chúng ta nên vận dụng đến trí tuệ của mình. Tôi vẫn có một niềm
tin không lay chuyển rằng bản tánh của con người là thiện lương, thế nên cho dù
trong thời gian qua đã không đạt được những kết quả mong muốn, tôi vẫn tin rằng
chúng ta sẽ chỉ đạt đến một giải pháp trong tương lai thông qua đường lối hoà
bình. Ðể cho mình bị cuốn hút vào một thái độ bạo động tức là làm phát lộ ra
những tình cảm, khát vọng hiện hữu trong tâm ta và cuối cùng ta sẽ bị chúng ngự
trị. Quá khứ đã hơn một lần cho ta thấy rằng nếu chúng ta dùng phương thức bạo
động để đạt đến mục đích thì luôn luôn sẽ tạo ra những phản ứng kèm theo mang
bản chất cực kỳ tiêu cực, và là nguyên nhân gây nên những khó khăn lớn lao
trong tương lai. Khi tham vọng không còn kiểm soát được, bạn sẽ gặt hái những
tình huống tương tự như những gì đã xảy ra tại Bosnia. Ðó là lý do tại sao, khi
nhận thức được những nguyên nhân và hậu qủa của một thái độ, tôi lựa chọn giải
pháp bất bạo động và sẽ tiếp tục đi theo con đường đó.
Thưa
Ngài, Ngài đã có lần tuyên bố rằng mình là vị Ðạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Lý do
tại sao?
Chúng
tôi đã đi đến kết luận rằng trong tương lai, Tây Tạng sẽ là một quốc gia dân
chủ. Thế nên tuỳ thuộc vào nhân dân Tây Tạng quyết định về ý nghĩa và phạm vi
quyền hạn của văn phòng Ðạt Lai Lạt Ma. Tôi đã chính thức công bố rằng khi hồi
hương về một đất nước Tây Tạng hoàn toàn tự do, tôi sẽ thiết lập một chính phủ
dân chủ và trao tất cả mọi quyền lực của mình cho chính phủ này. Thế nên văn
phòng của Ðạt Lai Lạt Ma sẽ tiếp tục hiện hữu nếu toàn thể nhân dân Tây Tạng
cho rằng nó mang đến những lợi lạc cho đất nước và đáp ứng lòng mong muốn của
mọi người. Nó sẽ được dẹp bỏ nếu nhân dân Tây Tạng thấy rằng nó không còn cần
thiết nữa, và như vậy lúc đó, vị Ðạt Lai Lạt Ma Ðời Thứ Mười Bốn có thể xem như
là vị Ðạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Cho dù chuyện như vậy xảy ra, tôi vẫn thường
nói đùa rằng, cũng không đến nỗi tệ lắm, bởi vì tên tuổi của vị Ðạt Lai Lạt Ma
thứ mười bốn sẽ đi vào lịch sử như là người đã không phản bội lại ý nguyện của
dân tộc mình.
Mấy
năm trước đây chúng tôi đã may mắn có cơ hội thăm viếng thủ đô Lhasa, và năm
rồi thì Labrang và Kumbum. Chúng tôi đã sửng sốt và rất bất mãn khi thấy một số
lượng khá đông đảo dân Trung Quốc đang định cư tại đây trong một hay hai thế hệ
vừa qua. Việc gì sẽ xảy ra cho dân Trung Quốc đang sống ở Tây Tạng, mà
nay số lượng đã ngang bằng với dân bản xứ, một khi Tây Tạng được hoàn toàn tự
do và độc lập?
Trong
số những người Trung Quốc sinh sống tại Tây Tạng tôi nghĩ rằng ta có thể
chia ra làm hai nhóm chính. Trước tiên đối với những người tôn trọng văn
hóa, truyền thống của Tây Tạng, tôi nghĩ là họ có thể sống hoà đồng với dân
chúng Tây Tạng, không có vấn đề! Tuy nhiên một số lượng rất lớn di dân không
làm việc gì khác hơn ngoài việc lăng nhục những truyền thống của Tây Tạng và
điều đó hiển nhiên là tạo nên những xung đột văn hoá với dân bản xứ. Ðối với
họ, việc sống chung với chúng tôi sẽ chẳng thoải mái chút nào, và đối với chúng
tôi cũng thế.
Làm
thế nào để Ngài không thù hận những kẻ chỉ muốn tìm cách tiêu diệt Ngài?
Trên
quan điểm của một Phật tử, một điều rất quan trọng là ta cần thấu hiểu được mối
dây liên hệ hiện hữu giữa kẻ gây nên tội ác và nạn nhân của y. Khi ta thấy một
kẽ đầy ác tâm đang ra tay hảm hại kẻ khác bằng những hành động tàn hại, tiêu
cực thì thực sự ra, y đang làm điều gì? Nếu nhìn sự việc theo nhãn quan Phật
giáo, ta biết là người đó đang sửa soạn để đón nhận một nỗi khổ đau lớn lao sẽ
dày vò y trong tương lai do quả báo gây ra bởi những hành động gian ác này. Thế
nhưng trong khi đó nạn nhân,tức là người đang gánh chịu những khổ đau bất hạnh,
chính là người đang thanh thỏa món nợ nghiệp báo do những hành động tiêu cực mà
họ đã gây ra trong quá khứ. Họ đang thanh lọc nghiệp qủa, và trong tiến trình
trả nghiệp bằng chính nỗi khổ đau của mình, người đó không còn tích tụ bất cứ
những tác hành tiêu cực mới nào. Thế cho nên khi hiểu được những gì đang chờ
đợi kẻ đang hảm hại ta trong tương lai, ta sẽ không còn nhìn y như một kẻ thù,
một đối tượng của lòng thù hận mà thay vào đó là đối tượng đặc biệt của lòng từ
bi. Thực tập suy nghĩ theo cách này sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Tôi
xin được nêu ra một thí dụ cụ thể. Gần đây tại Ấn Ðộ tôi gặp lại một người quen
cũ, nguyên là viện chủ của một tu viện Phật giáo, một người đã sống trọn hai
mươi năm trong nhà tù và các trại lao động khổ sai tại Tây Tạng. Khi chúng tôi
nói chuyện cùng nhau, ông ta đã tuyên bố với tôi rằng trong suốt thời gian bị
Trung Cộng cầm tù, mối hiểm nguy duy nhất mà ông ta phải đương đầu là nỗi
lo sợ sẽ đánh mất đi lòng từ đối với kẻ đang giam cầm đày ải ông. Tôi cho
rằng đây là thái độ phi thường nhất.
Nếu nhìn vào tình huống hiện nay tại Tây Tạng cũng như mối quan hệ giữa người
Tây Tạng và người Trung Quốc, ta có thể nói thẳng rằng người Tây Tạng là những
kẻ bị áp bức và người Trung Quốc là những kẻ đàn áp. Cho đến bây giờ thì người
Trung Quốc có vẻ như đã thành công trong sự nghiệp đàn áp của họ, tham vọng
chinh phục đất đai của họ cũng đã được thỏa mãn; lẽ ra họ nên vui sướng về
chuyện này. Thế nhưng trong thực tế, người Tây Tạng phần lớn có vẻ hạnh phúc
hơn là những kẻ đang thống trị họ. Ðiều này đã cho thêm một lý do có tính
thuyết phục để ta phát khởi lòng từ đối với người Trung Quốc thay vì thù hận
họ.
Một
thể chế dân chủ, như là một viễn kiến của Ngài về Tây Tạng tương lai, cần có
quân đội cũng như một hệ thống quốc phòng hay không?
Mối
giao hảo tốt đẹp giữa Ấn Ðộ và Trung Quốc -hai quốc gia đông dân nhất trên thế
giới- là điều tối cần thiết, đảm bảo nền hoà bình thế giới và đặc biệt là trong
khu vực này. Tây Tạng bây giờ không còn đóng vai trò truyền thống như là một
trái độn giữa hai quốc gia này nữa, mà quân lực của hai nước nay đang ghìm súng
trong những chiến hào đối diện nhau, tình huống như vậy đã thay đổi một cách
sâu sắc và mối căng thẳng ngày càng gia tăng. Thế cho nên, bất kỳ tình trạng
tương lai chính trị của Tây Tạng như thế nào, mục tiêu của tôi là biến Tây Tạng
thành một khu vực hoà bình, phi nguyên tử và phi quân sự, và như vậy một lần
nữa, do vị trí chiến lược hiển nhiên của nó, Tây Tạng sẽ lại trở thành
một vùng trái độn gìn giữ hoà bình cho toàn khu vực. Hai quốc gia lân bang chắc
chắn là đều sẽ hưởng được những lợi lạc do tình trạng này. Dù gì đi nữa thì đây
cũng không phải là một trường hợp điễn hình duy nhất trên thế giới -Costa Rica
đang là một quốc gia thịnh vượng trong suốt bốn mươi năm qua, hoàn toàn phi
quân sự, và mức sống dân chúng tại đây cao hơn là các nước láng giềng bởi một
lý do rất dễ hiểu là họ không tiêu phí bất kỳ một ngân khoản lớn lao nào của
ngân sách quốc gia cho lãnh vực quốc phòng như các lân bang. Bất cứ nơi nào tôi
đến tôi thường tuyên bố rằng vấn đề giải trừ quân bị không phải là một vấn nạn
độc quyền của Tây Tạng. Ðây là một vấn nạn cần phải được nhìn một cách nghiêm
túc trên mức độ toàn cầu.
Thứ
đến, nền văn hoá Tây Tạng cùng với tôn giáo cá biệt của nó, cả hai đều được xây
dựng trên căn bản của tinh thần bất bạo động mà tôi gọi là nền văn hoá Phật
giáo, đã mang lại sự thanh thản và bình an tâm hồn đến tất cả những nơi mà nó
truyền bá tới, từ phía nam, vùng Hy Mã Lạp Sơn, phía bắc và đông bắc của Nội
Mông và Ngoại Mông, và kể cả những khu vực vốn thuộc về Liên Bang Sô Viết cũ
trước đây. Hơn thế nữa, ngay chính nhiều nơi tại Trung Quốc cũng không thiếu
những chùa chiền, tu viện Tây Tạng, điều này cho thấy là tầm ảnh hưởng của nền
văn hoá chúng tôi đã trải rộng ra toàn vùng Á Châu. Văn hoá Tây Tạng như
thế còn có thể giúp ích rất nhiều cho người Trung Hoa; hay nói một cách
tổng quát, Phật giáo không xa lạ gì với đời sống tâm linh của họ. Thế cho
nên sự tồn tại của nền văn hoá và dân tộc Tây Tạng trên phần đất của thế giới
này phải là một mối quan tâm đặc biệt đối với người Trung Quốc.
Với tất cả tính cách hữu ích, tầm quan trọng, và hợp lý, hợp pháp của vấn đề,
sự tồn tại của quốc gia Tây Tạng như thế không phải chỉ được nhìn thuần túy
trên quan điểm đạo đức mà còn là một viễn tượng rất thực tế.