Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4A- Lời Nói Ði Ðôi Với Việc Làm

11 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7122)
4A- Lời Nói Ði Ðôi Với Việc Làm


VƯỢT KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða


PHẦN THỨ TƯ

VƯỢT QUA GIÁO ÐIỀU

LỜI NÓI ÐI ÐÔI VỚI VIỆC LÀM

Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có những lời hướng dẫn nào cho chúng tôi, những người hiện đang hoạt động nhằm phát triển những cộng đồng và những tổ chức Phật giáo liên hệ trong xã hội Tây phương?

Như tôi vẫn thường bảo các thân hữu Phật tử quen biết rằng, nếu chúng ta muốn những giá trị tốt đẹp của truyền thống Phật giáo đã phát triển lâu đời tại Tây Tạng được tồn tại mãi, tất cả đều tùy thuộc vào việc Tây Tạng có được tự do hay không. Bởi vì các bạn hiện đang chung sức làm việc cùng nhau, thế nên để đạt đến cứu cánh này, tôi xin các bạn hãy tiếp tục cộng tác với tất cả những người đã và đang hoạt động cho nền tự do của Tây Tạng.

Chúng tôi cố gắng để phân biệt hai tiếng “tự do“ và “độc lập”. Cách sử dụng tiếng độc lập có phần nào tế nhị. Rõ ràngchúng tôi đang nỗ lực để thiết lập mối liên lạc với nhà nước Trung Cộng và bắt đầu những cuộc thương thảo một cách nghiêm chỉnh với họ. Suốt mười bốn năm qua, tôi đã kiên trì làm hết sức mình theo hướng này, tin tưởng rằng những nỗ lực của tôi sẽ mang lại những thành quả tối hậu, thông qua những cuộc thương thuyết trực tiếp với nhà nước Trung Cộng.

Nhân đây tôi cũng xin được chia xẻ những ý nghĩ của tôi cùng tất cả qúy đạo hữu anh chị em Phật tử đang tụ họp ở đây. Trước hết, Phật giáo là một truyền thống tâm linh mới, một tôn giáo chưa hề có mặt tại phương Tây trước đây. Thế nên, quả là một điều rất bình thường nếu tất cả những ai yêu thích Phật giáo, cụ thểPhật giáo Tây Tạng, đồng thời cũng nên được đón nhận những thông tin hoặc học tập, nghiên cứu các tôn giáo, truyền thống khác. Ðây là một điều hoàn toàn tự nhiên. Tuy nhiên, đối với những người đang có ý định thật sự muốn quy y theo đạo Phật, tức là muốn cải đạo, điều quan trọng là họ cần nên cân nhắc kỹ lưỡng. Vấn đề này không nên thực hiện một cách hời hợt. Bởi vì một người cải đạo nếu không suy nghĩ chín chắn thường chỉ tạo ra những nỗi khó khăn cho chính mình dẫn đến tình trạng bất ổn nội tâm. Thế nên tôi xin được khuyên tất cả những ai muốn cải đạo qua đạo Phật, hãy nên suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi hành động.

Thứ đến, khi một người tin chắc rằng giáo lý Phật giáo phù hợp với căn tánh của mình hơn, có tác dụng hơn, lúc đó họ sẽ có một chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên đặc tánh chung của người đời là sau khi cải đạo, để biện minh cho việc làm của mình, họ thường có khuynh hướng lên tiếng chỉ trích đạo cũ của họ. Tinh thần này cần phải được loại bỏ bằng mọi giá. Cho dù đạo cũ có vẻ như không mang đến những hiệu quả thực tiễn mà họ mong muốn (đó là lý do của sự cải đạo,) đây không phải là lý do đủ để cho ta khẳng định rằng đạo cũ không có tác dụng đối với tâm linh con người. Tôn giáo đó vẫn tiếp tục mang lại những phúc lợi cho hàng triệu con người khác. Bởi vậy, là một Phật tử ta phải kính trọng những quyền căn bản của kẻ khác, những tôn giáo khác. Ðặc biệt là Phật tử, chúng ta cần phải nỗ lực hơn trong tiến trình tạo dựng và gìn giữ mối cảm thông hoà đồng tốt đẹp giữa các tôn giáo. Trong mọi tình huống, điều tuyệt đối cần thiết là ta nên nhận thức rõ nhu cầu tôn trọng các tín ngưỡng khác.

Thứ ba, truyền thống Phật giáo Tây Tạng luôn luôn chú trọng đến sự kết hợp hài hoà giữa học và hành. Dĩ nhiên vẫn có thể có chuyện là bạn thích học nhiều hay ít. Có người theo đuổi công cuộc học tập nghiên cứu một cách sâu xa nhưng cũng có người tự hài lòng ở một mức độ giới hạn nào đó. Dù trường hợp nào đi nữa, vấn đề cốt tủy là bạn không thể tách rời ba yếu tố học tập, quán chiếuthiền định. Bạn cũng cần phải bảo tồn cái truyền thống tu tập trong đó học tập, quán chiếu, thiền định như là một thể thống nhất không thể tách rời.

Thứ tư, tôi cũng thấy cần phải nhấn mạnh đến tinh thần không thiên vị, bè phái. Ðiều thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong đạo Phật là đã có nhiều người đặt nặïng trọng tâm vào một tông phái, truyền thống nào đó so với các tông phái khác mà hậu quả có thể đưa đến tình trạng tích lũy những hành động cực kỳ tiêu cực đối với Chánh Pháp. Những lợi ích của tinh thần không bè phái là sau khi nhận được sự truyền thụ về những giáo huấn, điểm đạo, và chú giải của từng truyền thống, ta sẽ có khả năng nhận thức rõ hơn tính chất cá biệt của những giáo lý này. Và theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, điều này sẽ mang đến rất nhiều lợi lạc. Thế nên, nếu giữ được cho mình một thái độ không bè phái,khi ta nhận được những giáo huấn của những truyền thống khác nhau, ta nên chiêm nghiệm kỹ và rồi mang chúng ra thực hành, chắc chắn là ta sẽ nâng cao được tầm hiểu biết của mình đối với Chánh Pháp. Ðó là lý do tại sao tinh thần không bè phái rất quan trọng trong vấn đề tu học.

Trong truyền thống Tây Tạng có hai đường lối tiếp cận thường được dùng bởi các vị thiện trí thức và các bậc thầy đã chứng đạt. Bên cạnh những vị chỉ chuyên tâm vào việc học hànhtu tập theo truyền thống, di sản tâm linh riêng của môn phái mình, ta cũng thấy có rất nhiều vị đã khai mở tinh thần học hành tu tập đạo Phật trên quan điểm không tông phái. Truyền thống này đã hiện hữu tại Tây Tạng với những bậc thầy vĩ đại, và tôi nghĩ rằng tinh thần không tông phái này rất đặc biệt quan trọng trong thời đại hiện nay và là tập quán Tây Tạng hay nhất cần nên được theo đuổi, duy trì.

Một điều thứ năm mà tôi cũng muốn được đề cập đến ở đây, đó là chỉ trong vòng chưa đầy ba mươi năm qua, Phật giáo Tây Tạng đã phát triển ra khắp cùng đại lục. Lạt ma, chu-cô (tulkus: hóa thân), và geshes cùng với sự tiếp tay của hàng trăm ngàn môn sinh, đệ tử đã góp phần rất lớn vào sự nở rộ của Phật giáo Tây Tạng trên toàn thế giới. Tuy nhiên cùng một lúc, những tình trạng bệnh hoạn cũng đã được phát hiện, tạo nên những nỗi khó khăn cho chúng ta. Tình trạng này thoạt tiên gây ra bởi lòng tin mù quáng quá mức ở một số môn sinh cũng như do một số các vị thầy đã lợi dụng, khai thác những nhược điểm này của đệ tử mình. Ðã có những vụ tai tiếng về tiền bạc cũng như sách nhiễu tình dục. Những chuyện tệ hại như vậy đã xảy ra! Thế cho nên tôi thấy cần phải nhấn mạnh ở điểm này, là cả thầy lẫn trò tuyệt đối cần thiết phải giữ mục tiêu tối hậu trong tâm mình, đó là bảo vệ sự trong sáng, tinh khiết của Chánh Pháp! Như vậy, bổn phận chung của tất cả chúng ta là phải chấm dứt các tệ đoan đó.

Ðức Bổn sư đã chỉ ra tứ nhiếp pháp để mang các môn đệ của Ngài lại gần nhau cũng như để đảm bảo phúc lợi cho kẻ khác. Lục độ Ba la mật (paramita) là phương thức thực hành để ta đạt đến thánh quảtứ nhiếp pháp giúp các môn sinh đệ tử gắn bó mật thiết với nhau nhằm mang lại lợi lạc cho tha nhân. Ðó là, trước tiên bằng cách tặng dữ những quà biếu vật chất, tiếp đến là dùng những lời chánh ngữ, rồi sau đó ta tìm mọi cách để giúp đỡ họ, và cuối cùng là phải cho thấy rằng lời nói của mình luôn đi đôi với việc làm. Trên tất cả, điểm cuối cùng này là điểm rất quan trọng mà ta cần phải lưu tâm. Bởi vì nếu ta không làm chủ được tâm mình, thì làm gì có thể nói đến chuyện điều tâm cho kẻ khác. Có thể chúng ta không biết chắc là mình điều tâm cho kẻ khác được hay không, nhưng đó chính là nhiệm vụ phải làm của chúng ta! Dù bất cứ trường hợp nào đi nữa, khi một người tự cho là mình có ý hướng muốn giúp đỡ tha nhân, điều trước tiên là họ phải kiểm soát được tâm của mình. Ðể thực hiện được điều này, một điều rất quan trọng đối với các vị thầy là phải không ngừng tự nhắc nhở mình về những giáo lý của Ðức Thế Tôn trong việc làm thế nào để giúp đỡ kẻ khác một cách hữu hiệu và đồng thời phải biến mình thành một tấm gương của lời nói đi đôi với việc làm.

Còn đối với các môn đồ đệ tử, tôi xin đưa ra một ngạn ngữ Tây Tạng: Người đệ tử không bao giờ nên đặt mình trước một vị tôn sư như là “một con chó nhào tới trước miếng thịt.” Ðiều này có nghĩa là người đệ tử không nên hấp tấp đặt trọn niềm tin của mình vào một vị thầy nào mà cần phảithời gian để chiêm nghiệm kỹ lưỡng, xem xét những phẩm chất của vị thầy đó trước khi xây dựng mối quan hệ tinh thần thầy trò qua việc chấp nhận những lời giáo huấn của họ. Cách tốt nhất để nhận những giáo huấn của một vị thầy là trước tiên ta nên xem họ như là một người bạn tinh thần. Chúng ta không nên quá vội vàng vừa nghe những lời dạy của họ và đồng thời cùng một lúc xem họ như là bậc tôn sư của mình. Từng tí một, sau khi có đủ thời gian quan sáttin chắc được rằng họ đúng là một bậc chân sư, đầy đủ phẩm chất và đáng tin cậy, chúng ta lúc đó mới có thể chấp nhận những lời dạy và xem họ là vị tôn sư của mình. Chớ nên vội vã, hấp tấp.

Ðiểm thứ sáu mà tôi muốn đề cập cùng qúy vị liên quan đến một lời cầu nguyện rất thông thường của chúng ta tại các trung tâm hoằng Pháp: “Xin nguyện cầu cho tất cả mọi chúng sanh tìm thấy được hạnh phúccứu cánh của đời mình.” Tôi nghĩ là lời nguyện cầu này cần phải được chúng ta mang ra áp dụng vào đời sống thực tiễn bằng cách thực hiện một điều gì đó có lợi ích cho xã hội, cụ thể như dấn thân vào những hoạt động xã hội trong cộng đồng mình, cố gắng giúp đỡ tất cả những ai đang gặp phải hoàn cảnh khó khăn, những người đang có vấn nạn tinh thần, hoặc những khổ đau khác. Ðiều này không có nghĩa là chúng ta nên đến để thuyết pháp, giảng đạo cho họ mà thay vào đó là sự giúp đỡ thiết thực do ta đã thông hiểu được giáo lý đạo Phật. Những hoạt động trực tiếp hướng đến tha nhân như thế cần phải được phát triển. Một lời nguyện cầu rất thông dụng khác cũng được xem như là một kết luận tự nhiên: “Xin nguyện cầu cho tất cả mọi chúng sanh đều đạt được hạnh phúcgiải thoát khỏi mọi khổ đau.” Trên căn bản của lời nguyện này, nếu chúng ta có thể mang lại được điều tốt đẹp dù chỉ cho một người duy nhất, chúng ta cũng đã hoàn thành được một phần của hạnh nguyện này. Hơn thế nữa, toàn thể cộng đồng Phật giáo thuộc những trung tâm này nên tham dự vào các công tác phụng sự xã hội bằng cách giúp đỡ kẻ khác, và điều này tôi nghỉ sẽ phải là những hoạt động quan trọng của tất cả các trung tâm.

Vấn đề ăn chay cũng không phải là điều hoàn toàn bắt buộc đối với người Phật tử. Nó chỉ quan trọng đối với những ai trong chúng ta đang tu tập theo giáo lý Ðại Thừa. Tuy nhiên những giáo lý của Ðức Thế Tôn rất là cởi mở và uyển chuyển đối với vấn đề này, và mỗi hành giả đều có quyền chọn lựa ăn chay hay không. Tuy nhiên nếu thỉnh thoảng có những lễ lạc lớn, những ngày hội, những buổi thuyết giảng giáo lý quy tụ đông người tại các trung tâm hoằng Pháp, tôi nghĩ rằng một điều rất quan trọng là chúng ta chỉ nên phục vụ thức ăn chay trong suốt các buổi gặp gỡ như thế.

Ðiểm thứ bảy: Chúng ta cũng thường hay nguyện cầu, “Xin cầu nguyện cho Phật Pháp được truyền bá khắp nơi.“ Nếu Tây Tạng dành lại được tự do, điều này chắc chắn sẽ giúp ích rất lớn cho việc bảo tồn những giáo lý uyên áo, thậm sâu của Ðức Bổn Sư, trong đó kể cả các tông phái Tiểu Thừa, Ðại Thừa cũng như Mật Tông. Thế cho nên mối liên hệ giữa việc giải phóng Tây Tạng và việc bảo tồn giáo lý của Ðức Phật trên thế giới này là một điều khá hiển nhiên. Ngược lại nếu vấn đề cốt lõi của việc giải phóng Tây Tạng chỉ thuần túy là một vấn đề chính trị, thì với tư cách là một tăng sĩ, một đệ tử của truyền thống Phật đà, tôi không có lý do gì để phải quan tâm đến chuyện này. Thế nhưng như mọi người đều thấy, cả hai phạm trù này đều quan hệ rất mật thiết với nhau.

Ngay cả khi tôi cổ xúy cho việc giải giới Tây Tạng, biến quốc gia này thành một vùng đất hòa bình, cho dù danh từ “giải giới” không phải là một danh từ có trong Phật Pháp, thế nhưng dự án này đã rất liên quan gần gũi với Chánh Pháp. Ða số các bạn ở đây, những đại diện và thành viên của các trung tâm khác nhau, đều là những người đã góp phần rất lớn vào công cuộc đấu tranh cho chính nghĩa tự do của Tây Tạng. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn và mong mỏi các bạn hãy tiếp tục theo đuổi những nỗ lực này, hãy luôn tâm niệm đến mối tương quan giữa việc bảo tồn giáo pháp và nền tự do của Tây Tạng, đó cũng là cách thức thực hành hạnh nguyện bảo tồn và phát huy Phật Pháp.

Ðiểm cuối cùng - các bạn nên giữ cho tâm hồn mình luôn vui vẻ và phải biết mĩm cười!

 

 

 

 

 

 

 




 

 

 

 

PHẦN THỨ HAI

TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ

TỪ BI

Thay mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.

Hôm nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồnLý do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn hoá đó.

Mặc cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta bảo tồn được sự thanh thảnan bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thầncon người hôm nay đang mắc phải cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn tôi khá lâu về sức mạnhtình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.

Tôi xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm 1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua. Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu tâm!

Tôi thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi, tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.

Cũng có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo, nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao. Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu linhthống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được tâm hồn mình, bình an, thư thái.

Trong một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.

Làm thế nào để phát triển sự bình anthanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản tánh của con ngườitốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mếnnhân ái. Từ ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tếmọi người đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa trẻ.

Chúng ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.

Con người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.

Tư tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cựcloại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữhận thù có vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cựcnhận diện một cách đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.

Từ đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt đẹp -từ bi, hỷ xảthiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua, không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quenlần hồi biến ta thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận chúng một cách dễ dàng.

Ðể huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo thời gian.

Làm thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩylòng từ bi, giận dữ có thể là một khía cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ. Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.

Nhìn vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con ngườilòng vị thatâm hồn bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó, nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúcmang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.

Chúng ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma Gandhi, một nhân vật kiệt xuấtý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền giáo dục Tây phươngý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày. Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất cả mọi khía cạnh tích cựccon người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của những tình cảm tích cực này của tâm hồn.

Kinh nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát triển tâm hồn mình.

Con người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình thân hữuthân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ của chúng ta.

Một số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền bạc và của cải vật chất dĩ nhiêncần thiết nhưng chúng không phải là vật thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.

Từ bi, hỷ xả, hy vọngnhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau. Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêutừ bi sẽ được tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương kính.

Tuy nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợptinh thần hợp tác trước mắt nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhânchia xẻ những kinh nghiệm của họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong hướng đó!

Thưa Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng cách nào chúng tathể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thảnđức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng nhất?

Ðiều quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần của mỗi cá nhân.

Với những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải quatiếp tục chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên, cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa ta đến con đường minh triết?

Tôi tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên, là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó như đã ở trong máu huyết của chúng ta.

Trong quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn. Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữChúng ta dùng củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo con đường Trung Ðạo.

Trong trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ thuật ức chế này?

Tôi nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cựcvô tận.

Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hànhtu tập với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế được vô minh!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17033)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38468)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21821)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 21906)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69642)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6795)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38590)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 43869)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 43955)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42773)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44268)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 22994)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39068)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21656)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42227)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35424)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46363)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 29969)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30696)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26114)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20270)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25464)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18393)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17027)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40635)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21626)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25766)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41304)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24807)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23670)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 14992)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19878)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37668)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19018)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17605)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23444)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40238)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19415)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21633)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35795)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28441)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28733)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32035)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26135)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24022)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24736)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54359)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant