VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ TƯ
VƯỢT QUA GIÁO ÐIỀU
LỜI NÓI ÐI ÐÔI VỚI VIỆC
LÀM
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có những lời hướng dẫn nào cho
chúng tôi, những người hiện đang hoạt động nhằm phát triển những cộng đồng và
những tổ chức Phật giáo liên hệ trong xã hội Tây phương?
Như tôi vẫn thường bảo các thân hữu Phật tử quen biết rằng, nếu
chúng ta muốn những giá trị tốt đẹp của truyền thống Phật giáo đã phát triển
lâu đời tại Tây Tạng được tồn tại mãi, tất cả đều tùy thuộc vào việc Tây Tạng
có được tự do hay không. Bởi vì các bạn hiện đang chung sức làm việc cùng nhau,
thế nên để đạt đến cứu cánh này, tôi xin các bạn hãy tiếp tục cộng tác với tất
cả những người đã và đang hoạt động cho nền tự do của Tây Tạng.
Chúng tôi cố gắng để phân biệt hai tiếng “tự do“ và “độc lập”.
Cách sử dụng tiếng độc lập có phần nào tế nhị. Rõ ràng là chúng tôi đang nỗ lực
để thiết lập mối liên lạc với nhà nước Trung Cộng và bắt đầu những cuộc thương
thảo một cách nghiêm chỉnh với họ. Suốt mười bốn năm qua, tôi đã kiên trì làm
hết sức mình theo hướng này, tin tưởng rằng những nỗ lực của tôi sẽ mang lại
những thành quả tối hậu, thông qua những cuộc thương thuyết trực tiếp với nhà
nước Trung Cộng.
Nhân đây tôi cũng xin được chia xẻ những ý nghĩ của tôi cùng tất
cả qúy đạo hữu anh chị em Phật tử đang tụ họp ở đây. Trước hết, Phật giáo là một
truyền thống tâm linh mới, một tôn giáo chưa hề có mặt tại phương Tây trước
đây. Thế nên, quả là một điều rất bình thường nếu tất cả những ai yêu thích
Phật giáo, cụ thể là Phật giáo Tây Tạng, đồng thời cũng nên được đón nhận những
thông tin hoặc học tập, nghiên cứu các tôn giáo, truyền thống khác. Ðây là một
điều hoàn toàn tự nhiên. Tuy nhiên, đối với những người đang có ý định thật sự
muốn quy y theo đạo Phật, tức là muốn cải đạo, điều quan trọng là họ cần nên
cân nhắc kỹ lưỡng. Vấn đề này không nên thực hiện một cách hời hợt. Bởi
vì một người cải đạo nếu không suy nghĩ chín chắn thường chỉ tạo ra những nỗi
khó khăn cho chính mình dẫn đến tình trạng bất ổn nội tâm. Thế nên tôi xin được
khuyên tất cả những ai muốn cải đạo qua đạo Phật, hãy nên suy nghĩ kỹ lưỡng
trước khi hành động.
Thứ đến, khi một người tin chắc rằng giáo lý Phật giáo phù hợp
với căn tánh của mình hơn, có tác dụng hơn, lúc đó họ sẽ có một chọn lựa đúng
đắn. Tuy nhiên đặc tánh chung của người đời là sau khi cải đạo, để biện minh
cho việc làm của mình, họ thường có khuynh hướng lên tiếng chỉ trích đạo cũ của
họ. Tinh thần này cần phải được loại bỏ bằng mọi giá. Cho dù đạo cũ có vẻ như
không mang đến những hiệu quả thực tiễn mà họ mong muốn (đó là lý do của sự cải
đạo,) đây không phải là lý do đủ để cho ta khẳng định rằng đạo cũ không có tác
dụng đối với tâm linh con người. Tôn giáo đó vẫn tiếp tục mang lại những phúc
lợi cho hàng triệu con người khác. Bởi vậy, là một Phật tử ta phải kính
trọng những quyền căn bản của kẻ khác, những tôn giáo khác. Ðặc biệt là Phật
tử, chúng ta cần phải nỗ lực hơn trong tiến trình tạo dựng và gìn giữ mối cảm
thông hoà đồng tốt đẹp giữa các tôn giáo. Trong mọi tình huống, điều tuyệt đối
cần thiết là ta nên nhận thức rõ nhu cầu tôn trọng các tín ngưỡng khác.
Thứ ba, truyền thống Phật giáo Tây Tạng luôn luôn chú trọng đến
sự kết hợp hài hoà giữa học và hành. Dĩ nhiên vẫn có thể có chuyện là bạn thích
học nhiều hay ít. Có người theo đuổi công cuộc học tập nghiên cứu một cách sâu
xa nhưng cũng có người tự hài lòng ở một mức độ giới hạn nào đó. Dù trường hợp
nào đi nữa, vấn đề cốt tủy là bạn không thể tách rời ba yếu tố học tập, quán
chiếu và thiền định. Bạn cũng cần phải bảo tồn cái truyền thống tu tập trong đó
học tập, quán chiếu, thiền định như là một thể thống nhất không thể tách rời.
Thứ tư, tôi cũng thấy cần phải nhấn mạnh đến tinh thần không
thiên vị, bè phái. Ðiều thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong đạo Phật là đã có nhiều
người đặt nặïng trọng tâm vào một tông phái, truyền thống nào đó so với các
tông phái khác mà hậu quả có thể đưa đến tình trạng tích lũy những hành
động cực kỳ tiêu cực đối với Chánh Pháp. Những lợi ích của tinh thần không bè
phái là sau khi nhận được sự truyền thụ về những giáo huấn, điểm đạo, và chú
giải của từng truyền thống, ta sẽ có khả năng nhận thức rõ hơn tính chất cá
biệt của những giáo lý này. Và theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, điều này sẽ
mang đến rất nhiều lợi lạc. Thế nên, nếu giữ được cho mình một thái độ không bè
phái,khi ta nhận được những giáo huấn của những truyền thống khác nhau, ta nên
chiêm nghiệm kỹ và rồi mang chúng ra thực hành, chắc chắn là ta sẽ nâng cao
được tầm hiểu biết của mình đối với Chánh Pháp. Ðó là lý do tại sao tinh thần
không bè phái rất quan trọng trong vấn đề tu học.
Trong truyền thống Tây Tạng có hai đường lối tiếp cận thường
được dùng bởi các vị thiện trí thức và các bậc thầy đã chứng đạt. Bên cạnh
những vị chỉ chuyên tâm vào việc học hành và tu tập theo truyền thống, di sản
tâm linh riêng của môn phái mình, ta cũng thấy có rất nhiều vị đã khai mở tinh
thần học hành tu tập đạo Phật trên quan điểm không tông phái. Truyền thống này
đã hiện hữu tại Tây Tạng với những bậc thầy vĩ đại, và tôi nghĩ rằng tinh thần
không tông phái này rất đặc biệt quan trọng trong thời đại hiện nay và là
tập quán Tây Tạng hay nhất cần nên được theo đuổi, duy trì.
Một điều thứ năm mà tôi cũng muốn được đề cập đến ở đây, đó là
chỉ trong vòng chưa đầy ba mươi năm qua, Phật giáo Tây Tạng đã phát triển ra
khắp cùng đại lục. Lạt ma, chu-cô (tulkus: hóa thân), và geshes cùng với sự tiếp
tay của hàng trăm ngàn môn sinh, đệ tử đã góp phần rất lớn vào sự nở rộ của
Phật giáo Tây Tạng trên toàn thế giới. Tuy nhiên cùng một lúc, những tình trạng
bệnh hoạn cũng đã được phát hiện, tạo nên những nỗi khó khăn cho chúng ta. Tình
trạng này thoạt tiên gây ra bởi lòng tin mù quáng quá mức ở một số môn sinh
cũng như do một số các vị thầy đã lợi dụng, khai thác những nhược điểm
này của đệ tử mình. Ðã có những vụ tai tiếng về tiền bạc cũng như sách nhiễu
tình dục. Những chuyện tệ hại như vậy đã xảy ra! Thế cho nên tôi thấy cần phải
nhấn mạnh ở điểm này, là cả thầy lẫn trò tuyệt đối cần thiết phải giữ mục tiêu
tối hậu trong tâm mình, đó là bảo vệ sự trong sáng, tinh khiết của Chánh Pháp!
Như vậy, bổn phận chung của tất cả chúng ta là phải chấm dứt các tệ đoan đó.
Ðức Bổn sư đã chỉ ra tứ nhiếp pháp để mang các môn đệ của Ngài
lại gần nhau cũng như để đảm bảo phúc lợi cho kẻ khác. Lục độ Ba la mật
(paramita) là phương thức thực hành để ta đạt đến thánh quả và tứ nhiếp pháp
giúp các môn sinh đệ tử gắn bó mật thiết với nhau nhằm mang lại lợi lạc cho tha
nhân. Ðó là, trước tiên bằng cách tặng dữ những quà biếu vật chất, tiếp đến là
dùng những lời chánh ngữ, rồi sau đó ta tìm mọi cách để giúp đỡ họ, và cuối
cùng là phải cho thấy rằng lời nói của mình luôn đi đôi với việc làm. Trên tất
cả, điểm cuối cùng này là điểm rất quan trọng mà ta cần phải lưu tâm. Bởi vì
nếu ta không làm chủ được tâm mình, thì làm gì có thể nói đến chuyện điều tâm
cho kẻ khác. Có thể chúng ta không biết chắc là mình điều tâm cho kẻ khác được
hay không, nhưng đó chính là nhiệm vụ phải làm của chúng ta! Dù bất cứ trường
hợp nào đi nữa, khi một người tự cho là mình có ý hướng muốn giúp đỡ tha nhân,
điều trước tiên là họ phải kiểm soát được tâm của mình. Ðể thực hiện được điều
này, một điều rất quan trọng đối với các vị thầy là phải không ngừng tự nhắc
nhở mình về những giáo lý của Ðức Thế Tôn trong việc làm thế nào để giúp đỡ kẻ
khác một cách hữu hiệu và đồng thời phải biến mình thành một tấm gương của lời
nói đi đôi với việc làm.
Còn đối với các môn đồ đệ tử, tôi xin đưa ra một ngạn ngữ Tây
Tạng: Người đệ tử không bao giờ nên đặt mình trước một vị tôn sư như là “một
con chó nhào tới trước miếng thịt.” Ðiều này có nghĩa là người đệ tử không nên
hấp tấp đặt trọn niềm tin của mình vào một vị thầy nào mà cần phải có thời gian
để chiêm nghiệm kỹ lưỡng, xem xét những phẩm chất của vị thầy đó trước khi xây
dựng mối quan hệ tinh thần thầy trò qua việc chấp nhận những lời giáo huấn của
họ. Cách tốt nhất để nhận những giáo huấn của một vị thầy là trước tiên ta nên
xem họ như là một người bạn tinh thần. Chúng ta không nên quá vội vàng vừa nghe
những lời dạy của họ và đồng thời cùng một lúc xem họ như là bậc tôn sư của
mình. Từng tí một, sau khi có đủ thời gian quan sát và tin chắc được rằng họ
đúng là một bậc chân sư, đầy đủ phẩm chất và đáng tin cậy, chúng ta lúc đó mới
có thể chấp nhận những lời dạy và xem họ là vị tôn sư của mình. Chớ nên vội vã,
hấp tấp.
Ðiểm thứ sáu mà tôi muốn đề cập cùng qúy vị liên quan đến một
lời cầu nguyện rất thông thường của chúng ta tại các trung tâm hoằng Pháp: “Xin
nguyện cầu cho tất cả mọi chúng sanh tìm thấy được hạnh phúc và cứu cánh của
đời mình.” Tôi nghĩ là lời nguyện cầu này cần phải được chúng ta mang ra áp
dụng vào đời sống thực tiễn bằng cách thực hiện một điều gì đó có lợi ích cho
xã hội, cụ thể như dấn thân vào những hoạt động xã hội trong cộng đồng mình, cố
gắng giúp đỡ tất cả những ai đang gặp phải hoàn cảnh khó khăn, những người đang
có vấn nạn tinh thần, hoặc những khổ đau khác. Ðiều này không có nghĩa là chúng
ta nên đến để thuyết pháp, giảng đạo cho họ mà thay vào đó là sự giúp đỡ thiết
thực do ta đã thông hiểu được giáo lý đạo Phật. Những hoạt động trực tiếp hướng
đến tha nhân như thế cần phải được phát triển. Một lời nguyện cầu rất thông
dụng khác cũng được xem như là một kết luận tự nhiên: “Xin nguyện cầu cho tất
cả mọi chúng sanh đều đạt được hạnh phúc và giải thoát khỏi mọi khổ đau.” Trên
căn bản của lời nguyện này, nếu chúng ta có thể mang lại được điều tốt đẹp dù
chỉ cho một người duy nhất, chúng ta cũng đã hoàn thành được một phần của hạnh
nguyện này. Hơn thế nữa, toàn thể cộng đồng Phật giáo thuộc những trung tâm này
nên tham dự vào các công tác phụng sự xã hội bằng cách giúp đỡ kẻ khác, và điều
này tôi nghỉ sẽ phải là những hoạt động quan trọng của tất cả các trung tâm.
Vấn đề ăn chay cũng không phải là điều hoàn toàn bắt buộc đối
với người Phật tử. Nó chỉ quan trọng đối với những ai trong chúng ta đang tu
tập theo giáo lý Ðại Thừa. Tuy nhiên những giáo lý của Ðức Thế Tôn rất là cởi
mở và uyển chuyển đối với vấn đề này, và mỗi hành giả đều có quyền chọn lựa ăn
chay hay không. Tuy nhiên nếu thỉnh thoảng có những lễ lạc lớn, những
ngày hội, những buổi thuyết giảng giáo lý quy tụ đông người tại các trung tâm
hoằng Pháp, tôi nghĩ rằng một điều rất quan trọng là chúng ta chỉ nên phục vụ
thức ăn chay trong suốt các buổi gặp gỡ như thế.
Ðiểm thứ bảy: Chúng ta cũng thường hay nguyện cầu, “Xin cầu
nguyện cho Phật Pháp được truyền bá khắp nơi.“ Nếu Tây Tạng dành lại được tự
do, điều này chắc chắn sẽ giúp ích rất lớn cho việc bảo tồn những giáo lý uyên
áo, thậm sâu của Ðức Bổn Sư, trong đó kể cả các tông phái Tiểu Thừa, Ðại Thừa
cũng như Mật Tông. Thế cho nên mối liên hệ giữa việc giải phóng Tây Tạng và
việc bảo tồn giáo lý của Ðức Phật trên thế giới này là một điều khá hiển nhiên.
Ngược lại nếu vấn đề cốt lõi của việc giải phóng Tây Tạng chỉ thuần túy là một
vấn đề chính trị, thì với tư cách là một tăng sĩ, một đệ tử của truyền thống
Phật đà, tôi không có lý do gì để phải quan tâm đến chuyện này. Thế nhưng
như mọi người đều thấy, cả hai phạm trù này đều quan hệ rất mật thiết với nhau.
Ngay cả khi tôi cổ xúy cho việc giải giới Tây Tạng, biến quốc
gia này thành một vùng đất hòa bình, cho dù danh từ “giải giới” không
phải là một danh từ có trong Phật Pháp, thế nhưng dự án này đã rất liên quan
gần gũi với Chánh Pháp. Ða số các bạn ở đây, những đại diện và thành viên của
các trung tâm khác nhau, đều là những người đã góp phần rất lớn vào công cuộc
đấu tranh cho chính nghĩa tự do của Tây Tạng. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn
và mong mỏi các bạn hãy tiếp tục theo đuổi những nỗ lực này, hãy luôn tâm niệm
đến mối tương quan giữa việc bảo tồn giáo pháp và nền tự do của Tây Tạng, đó
cũng là cách thức thực hành hạnh nguyện bảo tồn và phát huy Phật Pháp.
Ðiểm cuối cùng - các bạn nên giữ cho tâm hồn mình luôn vui vẻ và
phải biết mĩm cười!
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
TỪ BI
Thay
mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những
người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả
hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy
vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.
Hôm
nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồn. Lý
do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với
tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng
tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều
biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi
giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn
hoá đó.
Mặc
cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta
bảo tồn được sự thanh thản và an bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có
dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ
về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phải
cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn
tôi khá lâu về sức mạnh và tình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã
rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người
Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được
đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại
tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.
Tôi
xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu
viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm
1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong
khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của
Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể
lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua.
Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng
thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng
từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu
tâm!
Tôi
thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung
Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù
ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không
trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói
hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi,
tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.
Cũng
có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật
giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo,
nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của
thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao.
Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi
đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại
một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng
đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu
linh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được
tâm hồn mình, bình an, thư thái.
Trong
một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn
Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất
hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có
thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.
Làm
thế nào để phát triển sự bình an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản
tánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là
không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản
chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mến và nhân ái. Từ
ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó
chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tế mà mọi người
đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương
thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những
đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái
chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những
căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương
yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ
và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then
chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi
chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là
một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa
trẻ.
Chúng
ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm
tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn
hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang
giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng
những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm
tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau
ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng
thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.
Con
người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ
thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ
thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá
trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động
đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là
ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của
vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta
luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm
hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có
cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta
thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh
thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.
Tư
tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước
tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực và
loại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự
bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng
nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị
vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một
phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà
chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữ và hận thù có
vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm
thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri
thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương
tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ
nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp
trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà
chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cách
đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.
Từ
đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt
đẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng
những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho
dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua,
không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài
trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những
việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng
quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác
bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến ta
thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng
chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ
kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên
trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận
chúng một cách dễ dàng.
Ðể
huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ
trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí
một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ
có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn
toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi
nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương
tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo
thời gian.
Làm
thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường
hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là lòng từ bi, giận dữ có thể là một khía
cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta
phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn
khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận
thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối
cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác
nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân
loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ
khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ.
Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa
rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con
người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách
mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.
Nhìn
vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành
công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có lòng vị tha và tâm hồn
bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc
sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một
cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự
tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó,
nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.
Chúng
ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma
Gandhi, một nhân vật kiệt xuất có ý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống
rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền
giáo dục Tây phương và ý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống
tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa
sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày.
Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất
cả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của
những tình cảm tích cực này của tâm hồn.
Kinh
nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức
độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và
cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn
bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát
triển tâm hồn mình.
Con
người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận
rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người
đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra
không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng
ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình
thân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu
khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng
thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta
chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến
quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ
đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục
tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả
những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã
trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ
của chúng ta.
Một
số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta
bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy
dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng
mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang
có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm
banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt
đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất
khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền
bạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vật
thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.
Từ
bi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn
giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có
tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng
tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các
tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến
khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi
tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau.
Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ được
tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình
tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương
kính.
Tuy
nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con
người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao
truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít
mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ
còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân
loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một
tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắt
nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy
nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm của
họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những
khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía
cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy
trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên
chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất
đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước
khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong
hướng đó!
Thưa
Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi
thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba
mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các
trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra
tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng
cách nào chúng ta có thể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản và
đức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi
giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng
nhất?
Ðiều
quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm
nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết
qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn
ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu
hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình
nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị
vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần
của mỗi cá nhân.
Với
những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tục
chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý
kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên,
cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa
ta đến con đường minh triết?
Tôi
tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra
bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe
chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù
với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên,
là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã
sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những
dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta
vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó
như đã ở trong máu huyết của chúng ta.
Trong
quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật
điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn.
Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữ. Chúng ta dùng
củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng
của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với
cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta
là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên
đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường
khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta
biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một
sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng
ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính
mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo
con đường Trung Ðạo.
Trong
trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và
sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường
mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào
một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống
mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ
thuật ức chế này?
Tôi
nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số
trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi
bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều
này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức
kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta
tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi
đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện
xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy
của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không
có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cực là vô tận.
Tuy
nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức
chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tập
với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là
chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được
nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ
tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng
ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế
được vô minh!