Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4B- Một Cảm Quan Chung Cho Các Tôn Giáo Khác Biệt - Ðức Ðạt Lai Lạt Ma Thăm Viếng Tu Viện Dòng Kín Grande Chartreuse - Tôn GiáoHạnh Phúc Con Người

11 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6535)
4B- Một Cảm Quan Chung Cho Các Tôn Giáo Khác Biệt - Ðức Ðạt Lai Lạt Ma Thăm Viếng Tu Viện Dòng Kín Grande Chartreuse - Tôn Giáo Vì Hạnh Phúc Con Người


VƯỢT KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða


PHẦN THỨ TƯ

VƯỢT QUA GIÁO ÐIỀU

MỘT CẢM QUAN CHUNG
CHO CÁC TÔN GIÁO KHÁC BIỆT
ÐỨC ÐẠT LAI LẠT MA THĂM VIẾNG
TU VIỆN DÒNG KÍN GRANDE CHARTREUSE

Khi bạn mô tả cuộc thăm viếng tu viện dòng kín Grande Chartreuse của tôi trên báo chí, tôi hy vọng là bạn sẽ nhấn mạnh đến tầm quan trọng mà tôi luôn hết lòng gắn bó, đó là việc xây dựngbảo tồn tinh thần hoà đồng giữa các tôn giáo. Tôi vẫn luôn tin tưởng rằng những truyền thống tâm linh lớn nhất đều chia xẻ một thông điệp chung về lòng thương yêu, từ bitha thứ. Chúng cũng có tiềm năng phục vụ nhân loại và góp phần vào việc tiết giảm bầu khí căng thẳngxung đột giữa con người. Tôi tin tưởng rằng từ những mẫu số chung này người ta có thể tạo nên một chỗ dựa vững chắc để qua đó xây dựng mối cảm thông hoà điệu giữa các tôn giáohệ thống hoá một thông điệp chung: thực hành tín ngưỡng trong mục tiêu làm gia tăng ưu điểm cá nhân góp phần vào việc chuyển hóacải thiện đời sống con người.

Trong suốt bao nhiêu năm, mỗi lần có dịp gặp gỡ các hành giả đang tu tập -tôi muốn nhấn mạnh đến chữ này- tôi cảm nhận rằng, do công hạnh tu tập cùng với tầm hiểu biết sâu rộng về những giá trị lớn lao của tôn giáo mà họ đang tu học, họ rất dễ dàng thông hiểu những giá trị của các tôn giáo khác; và do đó họ cũng có khả năng tự nhiên trong việc tạo nên mối cảm thông và hòa điệu. Giống như tôi, chắc hẵn bạn cũng đã biết rằng trong quá khứ đã có biết bao nhiêu tấn thảm kịch xảy ra trên trái đất này nhân danh tôn giáo, và kể cả ngay trong thời đại bây giờ như những gì đã xảy ra tại Châu Phi, Bosnia. Cho dù đã có những sự kiện bi thảm như thế, tôi nghĩ rằng tinh thần hợp tác tôn giáo đang ngày một cải thiện. Sống theo tôn giáo mà mình chọn lựa cũng chẳng khác gì khả năng chúng ta có thể ăn được trong khi đói, đó là một quyền căn bản của con người mà tôi luôn lên tiếng biện hộ. Chúng ta ăn uống những thực phẩm bổ dưỡng để mang lại sức khỏe cho cơ thể, thế nên thực phẩm càng đa dạng chừng nào thì càng tốt chừng nấy! Ðiều này cũng được áp dụng cho tôn giáo, tức là thức ăn tinh thần của con người. Do căn cơ trí tuệtâm tính của mỗi cá nhân, người ta có thể lựa chọn cho mình một tôn giáo thích ứng. Mỗi tôn giáo đều có những tinh túy, phẩm chất riêng biệt, và tiềm lực vô song của nó, và đây là điều thật tuyệt diệu. Thế nên trên một quan điểm phóng khoáng, tất cả mọi tôn giáo đều có những điểm chung, và trên căn bản này chúng ta có thể ngồi lại làm việc với nhau.

Khi nghe đồn rằng trong vùng này có những vị tu sĩ và nữ tu sống biệt lập trong tu viện, những người đã cống hiến trọn vẹn đời mình cho niềm tin tôn giáo, tôi rất ao ước được gặp gỡ họ. Ngay từ khi mới đặt chân vào mảnh sân của tu viện, tôi đã bị choáng ngợp bởi bầu không khí tỉnh lặng và cảnh trí tươi đẹp của nơi này, tất cả như toát ra những luồng sóng an bìnhtâm linh mạnh mẽ. Lúc này ở đây cũng khá lạnh! Tôi đã chia xẻ những suy nghĩ của tôi cùng với những vị tu sĩ mà tôi gặp gỡ, đặc biệt liên hệ đến những điểm tương đồng giữa kinh nghiệm tâm linhđời sống suy niệm của từng truyền thống. Trong khi trao đổi với vị tu viện trưởng, tôi đã khám phá ra rằng chương trình cầu nguyện chặt chẽ hàng ngày của những vị tu sĩ này, những người chấp nhận đời sống khổ hạnh, có nhiều điểm rất tương đồng với sự tu tập của các tăng sĩ và nữ tu Phật giáo.

Ðiều đáng ngạc nhiên là những điểm tương đồng này đã hiện hữu và đã không bắt nguồn từ những trao đổi lẽ ra đã có từ lâu. Chúng ta đã bị cách chia hơn một thiên niên kỷ, thế nhưng hình như vẫn có những ảnh hưởng siêu nhiên, hay nói một cách khác, một cảm quan chung đã được chia xẻ giữa hai truyền thống. Tất cả đã cho tôi cảm giác rằng mình đã nhận được một kinh nghiệm rất kỳ diệu, rất phi thường và điều này đã tạo nên một tác động mạnh mẽ trong tâm trí tôi.

TÔN GIÁO
HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI

Hiện có đến khoảng năm tỷ người đang sống trên quả đất này, trong đó tôi nghĩ rằng họ có thể được phân chia thành ba thành phần chính. Trước tiên, khoảng một phần ba trong số này có đức tin tôn giáo, và đang theo đuổi một hành trình tâm linh; như một đối cực, một phần ba khác phủ nhận tôn giáo như là một thứ độc dược tinh thần và không làm gì khác hơn ngoài việc miệt thị nó; và cuối cùng một phần ba còn lại gồm những người vô thưởng vô phạt, không theo và cũng không chống tôn giáo.
Nhân loại, bao gồm cả ba thành phần trên, nói chung đều có một ước vọng giống nhau là xa lánh khổ đau và kiếm tìm hạnh phúc. Trên phương diện này họ chẳng có gì khác biệt nhau -con người ai cũng nỗ lực hết sức mình tìm mọi cách để gặt hái thành đạthạnh phúc cũng như chạy trốn khổ đau. Bây giờ chúng ta hãy thử làm một sự so sánh giữa một bên là những người chấp nhận tôn giáo, có đức tin vào một cuộc sống tâm linh và một bên là những kẻ đã chống lại một cách triệt đểChúng ta có thể ngạc nhiên tự hỏi giữa họ ai là người được hạnh phúc, có tâm hồn thoải mái hơn -những người có tín ngưỡng hay là những người chống đối lại? Phải đợi đến khi con người trực diện với những tình huống khó khăn, sự khác biệt sẽ xuất hiện ngay như một bằng chứng. Những người không tín ngưỡng sẽ cảm thấy tâm hồn họ lập tức bị rơi vào tình trạng giận dữ, buồn bực bởi vì họ không có gì để chống đỡ lại những cảnh huống khó khăn đó. Thế nhưng đối với những người được hổ trợ tinh thần bởi niềm tin tôn giáo sẽ cảm thấy niềm tin của mình được củng cố thêm, tạo cho họ phương tiện tốt hơn để có thể đương đầu với vấn nạn một cách trầm tỉnh.

Nếu bạn so sánh giữa người giàu và người nghèo, hình như những người không có một đồng xu dính túi thường là những người ít phải lo nghĩ hơn. Còn người giàu, có kẻ thì biết cách sử dụng tài sản, sự giàu có của mình một cách thông minh, nhưng có kẻ không, và tuỳ theo mức độ, điều mà ta dễ nhận thấy là họ bị chìm ngập trong những lo âu bối rối thường xuyên, bị giày vò xâu xé giữa hy vọngnghi vấn, cho dù bên ngoài họ có vẻ như rất thành công trong mọi chuyện. Một điều chắc chắn rằng cuộc sống tâm linh, tôn giáo quả rất là lợi lạc, hữu ích cho con người mỗi khi phải trực diện với những nỗi khó khăn vượt ra khỏi năng lực bình thường của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày. Tôi thường bảo một số thân hữu rằng nếu quả thật những người chối bỏ các truyền thống tâm linh có một cuộc sống cực kỳ hạnh phúc thì chúng ta cũng nên từ bỏ tôn giáo đi cho rồi, bởi vì chúng ta tu tập không ngoài mục đích tìm kiếm hạnh phúcan lạc.

Các tôn giáo lớn trên thế giới được liệt vào trong hai truyền thống chính. Một số tin vào một Ðấng Sáng Tạo, một số khác đặt trọng tâm vào sự chuyển hoá tâm linh. Nếu ta có thể chuyển hoáđiều ngự được tâm mình, tức là ta đạt đến tình trạng được gọi là niết-bàn. Ngược lại, nếu ta không thể kiểm soát được nó, ta sẽ là những kẻ nô lệ cho chính tâm mình, và sẽ mãi đắm chìm trong luân hồi sinh tử. Ðó là hai sự khác biệt lớn lao. Tôi tin rằng tất cả mọi người đều có những khát vọng khác nhau, thế nên đa tôn giáo quả thật là điều rất tốt và rất đáng tán dươ ng.

Phật giáo, Kỳ-Na giáo (Jain), một bộ phận của trường phái triết học Số luận (Samkhya), truyền thống Ấn giáo, đều là những truyền thống không tin tưởng vào một Ðấng Sáng Tạo. Thái độ bất bạo động, không làm hại kẻ khác, và quan điểm về duyên khởi là hai phạm trù chính nêu bật bản sắc đặc biệt của Phật giáo.

Nhưng thế nào gọi là bất bạo động? Có thể nói một cách dễ hiểu rằng đó là thái độ không những không chấp nhận bạo động mà còn thực hiện những điều tốt đẹp cho kẻ khác. Nếu không thể làm được như vậy thì ít nhất ta phải tuyệt đối tránh làm những việc gây thiệt hại cho kẻ khác.

Làm thế nào để thực hành bất bạo động, và làm thế nào để đạt đến hạnh phúc, điều mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm? Những mục tiêu này đều tùy thuộc vào một số nguyên nhânđiều kiện, sự cần thiết của khả năng kiểm soát, huấn luyện, và chuyển hoá tâm thức, tất cả sẽ đưa ta đến tình trạng an lạchạnh phúc; ngược lại nếu ta không đủ khả năng để thực hiện sự chuyển hóa này, ta sẽ rơi vào vòng đau khổ triền miên. Chúng ta phải hành động theo một cung cách nào đó để cho những khát vọng của ta, cũng là khát vọng chung của mọi con người -theo đuổi hạnh phúc và xa lánh khổ đau- sẽ không trái nghịch với hậu quả gây ra bởi những hành động của chính mình. Dĩ nhiênchúng ta phải tận dụng mọi nguồn hổ trợ để đạt đến mục tiêu này.

Khi chúng ta tìm cách diễn đạt cho một người sơ cơ về cấu trúc của con đường dẫn đến giác ngộ, ta thường nói đến ngũ đạothập địa (tiếng Phạn: bhumi). Và như thế, cứ lần hồi, tinh tấn tiến bước trên con đường tu tập này sẽ đưa ta đến tình trạng nhất thiết trí của Phật quả. Ta đồng thời cũng thường đề cập đến tam thân (kaya): Ðó là Pháp thân (Dharmakaya), Báo thân (Sambhogakaya), và Hóa thân (Nirmanakaya). Hai loại thân sau -Báo thân và Hóa thân- xuất hiện từ hư không của tri kiến của Pháp thân, một mặt bằng tuyệt đối, được biểu hiện bởi hình tượng của một vị Cổ Phật, Ðức Tổng Thể Phật (Samanta-bhadra), mà màu xanh là dấu hiệu tượng trưng cho tính chất bất biến của Ngài. Chúng ta tắm gội trong ánh sáng của Ngài. Tổng Thể Phật còn được biểu hiệu dưới một dạng nữ thân khác là Phật Mẫu Samantabhadri. Tổng Thể Phật tượng trưng cho tình trạng nguyên thủy liên quan đến đại hoan hỷ, trong khi Samantabhadri tượng trưng cho tình trạng tinh khiết nguyên thủy.

Khi chúng ta nói về Ngài Tổng Thể Phật hay Phật Mẫu Samantabhadri, chúng ta không xem các Ngài như là những đấng thượng đế sáng tạo. Chính từ hư không của tri kiến và sự chứng ngộ của các Ngài mà vòng luân hồi sinh tử và niết-bàn đã được tuyên xưng và xuất hiện.

Dĩ nhiên quả là điều quan trọng khi ta biết được những giai đoạn tiến triển khác nhau của tiến trình tâm linh, nhưng đồng thời chúng ta cũng cần phải biết sống như thế nào trong cuộc sống đời thường. Những vị đại sư của Cam-đan phái (Kadampa) đã nói rằng, nhiều người trông có vẻ giống như những hành giả đang tu tập nghiêm chỉnh chánh Pháp khi bao tử của họ căng đầy và được ngồi thoải mái dưới nắng ấm mặt trời, nhưng rồi họ hoàn toàn đánh mất dáng vẽ này, trở nên giận dữcãi lộn lẫn nhau, một khi họ bị bực mình trước những tình huống khó khăn. Ðó là điều mà chúng ta cần phải tránh. Bởi vậy, điều quan trọng là ta phải thực hành giáo lý của Chánh Pháp hằng ngày, ngày này qua ngày khác.

Những đức hạnh chủ yếu nào ta cần phải trau dồi , tu dưỡng trong cuộc sống thường nhật? Trước tiên, đó là lòng nhân ái, từ tâm, kiên nhẫn, và khoan dung; đồng thời cũng phải biết tri túc, thỏa mãn với cuộc sống khiêm tốn, đơn giản -đó là những điểm được chia xẻ bởi tất cả mọi tôn giáo.

Ðặc biệt, Phật giáo có giúp được cho chúng ta phương cách nào để đạt đến mục tiêu thỏa mãn và an lạc? Ðể giải thích điều này, thiết tưởng chúng ta cần phải nên biết đến luật nhân quả, nghiệp báo, để hiểu rằng tình trạng bất toại ý được bắt nguồn từ vòng luân hồi sinh tử, cũng như để biết cách làm thế nào để ta có thể chuyển hoá hạnh phúc và nhận lấy những khổ đau của tha nhân làm của mình. Hận thùác tâm là những mối nguy cơ lớn nhất cho hoà bình và hạnh phúc. Ðể có thể ngăn ngừa hận thùgiận dữ có cơ hội mọc rễ trong ta, trước tiên ta phải tìm cách loại bỏ cho được lòng bất mãn,bởi vì đó chính là cội rễ của hận thùác tâm. Ðể có thể thực hiện được việc này, ta phải làm cho tâm của mình trở nên thanh thản, rộng mở và thư giản. Bởi vì một khi ngọn lửa thù hận đã bùng cháy lên với tất cả sức mạnh của nó, ta khó mà tìm ra phương thuốc để chữa trị. Cho nên điều quan trọng là ta phải phòng ngừa, ngăn cản những gì có thể làm cho lòng hận thù phát khởi.

Sự thù nghịch, gây hấnhận thù là những sản phẩm chính của lòng bất mãn, và để ngăn ngừa cái tình cảm bất toại ý này phát sinh, chúng ta phải giữ cho tâm mình ở trong trạng thái hoàn toàn thanh thản, rộng mở, và bao dung, cũng như luôn luôn thoải mái với chính mình. Trái lại, nếu tâm ta chật hẹp, khép kín thì cho dù chỉ một sự kiện nhỏ xảy ra cũng sẽ làm cho ta bực bội, bất mãncảm thấy mình bị thương tổn, bất toại ý mà hậu qủa sẽ dẫn ta đến giận dữ và oán thù. Thế nên điều quan trọng là ta phải luôn giữ cho tâm mình ở trong trạng thái quân bình, rộng mở, và thanh thản. Hạnh phúc của chúng ta luôn gắn chặt với hạnh phúc của kẻ khác. Nó tuỳ thuộc sâu xa vào tất cả những người sống quanh ta. Thế nên chúng ta phải luôn ý thức điều này để mỗi khi cảm thấy hạnh phúc, thỏa mãn chúng ta phải nhận ra rằng mình đang mang một món nợ ân nghĩa đối với lòng nhân ái của tất cả mọi người.

Trong đời sống này có thể là chúng ta sẽ có kẻ thù, những người có ý muốn hoặc đang thật sự hảm hại ta. Tuy nhiên yếu tính căn bản của Phật giáo, đặc biệt Phật giáo Ðại thừa, là lòng nhân ái, từ bibồ đề tâm, tâm thức của giác ngộ. Thế nên nếu sự giận dữ và thù hận phát khởi trong ta, sức mạnh của lòng từtinh thần giác ngộ của ta phải có đủ năng lực để chống lại chúng. Bởi vậy nhẫn là một đức tính cần thiết mà mỗi người Phật tử cần phải có. Không có hạnh nhẫn nhục không thể thực hành được Bồ Tát Ðạo. Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ về điều này, thì vấn đề chính yếu là làm thế nào để cho nhẫn nhục được thực hiện và phát triển trong cuộc sống đời thường? Nhẫn nhục cần sự có mặt của kẻ thù -một điều rất rõ ràngchúng ta không cần phải thực hành nhẫn nhục đối với Ðức Phật, vị tôn sư, hay người bạn tinh thần của mình. Ngược lại, nhẫn nhục chỉ có thể được thực hiện đối với những kẻ muốn hảm hại ta, những kẻ mà ta gọi là “kẻ thù”, qua đó nhẫn nhục mới thực sự được nuôi dưỡng và phát triển. Chính kẻ thù đã giúp ta một cơ hội duy nhất để thực hành hạnh nhẫn nhục và qua đó phát triển được tất cả những phẩm chất qúy giá của Bồ Tát Ðạo. Như vậy thay vì xem kẻ thù như là một cái gì đó rất khó ưa, ta ngược lại phải đối xử với họ bằng lòng kính trọng và sự biết ơn, bởi vì họ đã cho ta cơ hội duy nhất này để thực hành Bồ Tát Ðạo.

Một khi đã chứng tỏ được lòng nhân ái và vị tha của mình, ta đồng thời cũng sẽ trở nên can đảm và vững tâm trước mọi chuyện; thế nên những ngày đi qua trong đời ta sẽ thắm đượm với hạnh phúc, thanh thảnthỏa mãn. Mặc dù cá nhân tôi không có nhiều kinh nghiệm trên lãnh vực này, tôi vẫn luôn cố gắng thực hiện những điều nhẫn nhục nhỏ nhất có thể có được.
Chúng ta sẽ không bao giờ ngưng tiến bộnhận thức rằng nếu ta thực hiện được điều này ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng nọ, năm này đến năm kia, đời này sang đời khác ta sẽ đạt đến nỗi hạnh phúc vô bờ.

Theo Ngài, Phật Pháp có thể giúp ích được gì cho Tây Phương?

Trong xã hội Tây phương, nói chung những anh chị em huynh đệ của tôi, những tu sĩ hay nữ tu Cơ Ðốc giáo, hoặc là những tín đồ đang tu tập, Phật giáo có thể mang lại cho họ những trợ giúp cần thiết để phát triển thêm tình yêu thương, từ ái, được coi như là những phẩm chất cốt lõi của bất kỳ tôn giáo nào. Ðồng thời nó cũng giúp phần nào trong vấn đề cải thiện thiền tập.

Thưa Ngài, làm thế nào để đời sống tâm linhthế tục có thể hoà điệu cùng nhau?

Khi nói đến những sinh hoạt thế tục, chúng ta thường đề cập đến tám vấn đề quan tâm chính yếu của người đời: đó là những ý tưởng liên quan đến tầm mức quan trọng mà chúng ta thường gắn bó với niềm vui và đau khổ, sự được thua thành bại, tăm tiếng và vô danh, việc được ca tụng hay bị chỉ trích. Tám mối quan tâm này có những mức độ khác nhau mà tuỳ theo trường hợp có thể hoàn toàn trở nên tiêu cực, trung hoà, hay rất mực tích cực. Trong những trường hợp cực đoan nhất, tâm của người đời nặng về đời sống thế tục thường bị tràn ngập bởi những tình cảm hận thù, hoặc tham vọng muốn chiếm hữu mọi thứ về cho mình cho dù phải gây tổn hại hay dối lừa kẻ khác. Trong trường hợp như thế dĩ nhiên nó đã đi quá xa đối với những đòi hỏi về tâm linh. Ngược lại trong những trường hợp mà những hoạt động thế tục được thúc đẩy bởi những tình cảm cao qúy, chẳng hạn như những người có ý hướng muốn tham gia vào việc điều hành kinh tế cho một quốc gia, hay khu vực nào đó mà động cơ chính là lòng nhân ái hoặcquan tâm đến phúc lợi của kẻ khác, thì vấn đề hoà điệu giữa đời sống tâm linh và thếù tục quả là một vấn đề rất đơn giản.

 

 

 


 

 

 

 

 

 




 

 

 

 

PHẦN THỨ HAI

TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ

TỪ BI

Thay mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.

Hôm nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồnLý do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn hoá đó.

Mặc cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta bảo tồn được sự thanh thảnan bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thầncon người hôm nay đang mắc phải cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn tôi khá lâu về sức mạnhtình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.

Tôi xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm 1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua. Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu tâm!

Tôi thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi, tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.

Cũng có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo, nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao. Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu linhthống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được tâm hồn mình, bình an, thư thái.

Trong một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.

Làm thế nào để phát triển sự bình anthanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản tánh của con ngườitốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mếnnhân ái. Từ ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tếmọi người đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa trẻ.

Chúng ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.

Con người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.

Tư tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cựcloại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữhận thù có vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cựcnhận diện một cách đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.

Từ đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt đẹp -từ bi, hỷ xảthiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua, không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quenlần hồi biến ta thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận chúng một cách dễ dàng.

Ðể huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo thời gian.

Làm thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩylòng từ bi, giận dữ có thể là một khía cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ. Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.

Nhìn vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con ngườilòng vị thatâm hồn bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó, nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúcmang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.

Chúng ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma Gandhi, một nhân vật kiệt xuấtý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền giáo dục Tây phươngý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày. Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất cả mọi khía cạnh tích cựccon người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của những tình cảm tích cực này của tâm hồn.

Kinh nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát triển tâm hồn mình.

Con người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình thân hữuthân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ của chúng ta.

Một số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền bạc và của cải vật chất dĩ nhiêncần thiết nhưng chúng không phải là vật thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.

Từ bi, hỷ xả, hy vọngnhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau. Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêutừ bi sẽ được tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương kính.

Tuy nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợptinh thần hợp tác trước mắt nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhânchia xẻ những kinh nghiệm của họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong hướng đó!

Thưa Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng cách nào chúng tathể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thảnđức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng nhất?

Ðiều quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần của mỗi cá nhân.

Với những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải quatiếp tục chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên, cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa ta đến con đường minh triết?

Tôi tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên, là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó như đã ở trong máu huyết của chúng ta.

Trong quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn. Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữChúng ta dùng củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo con đường Trung Ðạo.

Trong trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ thuật ức chế này?

Tôi nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cựcvô tận.

Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hànhtu tập với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế được vô minh!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17293)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46367)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9566)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8746)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15783)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15407)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18198)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9568)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9606)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18369)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15593)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10884)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8875)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10385)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10164)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9335)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11423)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10042)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 22906)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9562)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17204)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 18960)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10130)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19361)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9417)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12253)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 11935)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19700)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12661)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13083)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14301)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32318)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12930)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11915)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20713)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40593)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10053)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9535)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 18953)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8800)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8299)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10433)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11657)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30601)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11459)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10417)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 15974)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25554)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10006)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant