VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ TƯ
VƯỢT QUA GIÁO ÐIỀU
MỘT
CẢM QUAN CHUNG
CHO CÁC TÔN GIÁO KHÁC
BIỆT
ÐỨC ÐẠT LAI LẠT MA
THĂM VIẾNG
TU VIỆN DÒNG KÍN
GRANDE CHARTREUSE
Khi bạn mô tả cuộc
thăm viếng tu viện dòng kín Grande Chartreuse của tôi trên báo chí, tôi hy vọng
là bạn sẽ nhấn mạnh đến tầm quan trọng mà tôi luôn hết lòng gắn bó, đó là việc
xây dựng và bảo tồn tinh thần hoà đồng giữa các tôn giáo. Tôi vẫn luôn tin
tưởng rằng những truyền thống tâm linh lớn nhất đều chia xẻ một thông điệp chung
về lòng thương yêu, từ bi và tha thứ. Chúng cũng có tiềm năng phục vụ
nhân loại và góp phần vào việc tiết giảm bầu khí căng thẳng và xung đột giữa
con người. Tôi tin tưởng rằng từ những mẫu số chung này người ta có thể tạo nên
một chỗ dựa vững chắc để qua đó xây dựng mối cảm thông hoà điệu giữa các tôn
giáo và hệ thống hoá một thông điệp chung: thực hành tín ngưỡng trong mục tiêu
làm gia tăng ưu điểm cá nhân góp phần vào việc chuyển hóa và cải thiện đời sống
con người.
Trong suốt bao nhiêu
năm, mỗi lần có dịp gặp gỡ các hành giả đang tu tập -tôi muốn nhấn mạnh đến chữ
này- tôi cảm nhận rằng, do công hạnh tu tập cùng với tầm hiểu biết sâu rộng về
những giá trị lớn lao của tôn giáo mà họ đang tu học, họ rất dễ dàng thông hiểu
những giá trị của các tôn giáo khác; và do đó họ cũng có khả năng tự nhiên
trong việc tạo nên mối cảm thông và hòa điệu. Giống như tôi, chắc hẵn bạn cũng
đã biết rằng trong quá khứ đã có biết bao nhiêu tấn thảm kịch xảy ra trên trái
đất này nhân danh tôn giáo, và kể cả ngay trong thời đại bây giờ như những gì
đã xảy ra tại Châu Phi, Bosnia. Cho dù đã có những sự kiện bi thảm như thế, tôi
nghĩ rằng tinh thần hợp tác tôn giáo đang ngày một cải thiện. Sống theo tôn
giáo mà mình chọn lựa cũng chẳng khác gì khả năng chúng ta có thể ăn được trong
khi đói, đó là một quyền căn bản của con người mà tôi luôn lên tiếng biện hộ.
Chúng ta ăn uống những thực phẩm bổ dưỡng để mang lại sức khỏe cho cơ thể, thế
nên thực phẩm càng đa dạng chừng nào thì càng tốt chừng nấy! Ðiều này cũng được
áp dụng cho tôn giáo, tức là thức ăn tinh thần của con người. Do căn cơ trí tuệ
và tâm tính của mỗi cá nhân, người ta có thể lựa chọn cho mình một tôn giáo
thích ứng. Mỗi tôn giáo đều có những tinh túy, phẩm chất riêng biệt, và tiềm
lực vô song của nó, và đây là điều thật tuyệt diệu. Thế nên trên một quan điểm
phóng khoáng, tất cả mọi tôn giáo đều có những điểm chung, và trên căn bản này
chúng ta có thể ngồi lại làm việc với nhau.
Khi nghe đồn rằng
trong vùng này có những vị tu sĩ và nữ tu sống biệt lập trong tu viện, những
người đã cống hiến trọn vẹn đời mình cho niềm tin tôn giáo, tôi rất ao ước được
gặp gỡ họ. Ngay từ khi mới đặt chân vào mảnh sân của tu viện, tôi đã bị choáng
ngợp bởi bầu không khí tỉnh lặng và cảnh trí tươi đẹp của nơi này, tất cả như
toát ra những luồng sóng an bình và tâm linh mạnh mẽ. Lúc này ở đây cũng khá
lạnh! Tôi đã chia xẻ những suy nghĩ của tôi cùng với những vị tu sĩ mà tôi gặp
gỡ, đặc biệt liên hệ đến những điểm tương đồng giữa kinh nghiệm tâm linh và đời
sống suy niệm của từng truyền thống. Trong khi trao đổi với vị tu viện trưởng,
tôi đã khám phá ra rằng chương trình cầu nguyện chặt chẽ hàng ngày của những vị
tu sĩ này, những người chấp nhận đời sống khổ hạnh, có nhiều điểm rất tương
đồng với sự tu tập của các tăng sĩ và nữ tu Phật giáo.
Ðiều đáng ngạc nhiên
là những điểm tương đồng này đã hiện hữu và đã không bắt nguồn từ những trao
đổi lẽ ra đã có từ lâu. Chúng ta đã bị cách chia hơn một thiên niên kỷ, thế
nhưng hình như vẫn có những ảnh hưởng siêu nhiên, hay nói một cách khác, một
cảm quan chung đã được chia xẻ giữa hai truyền thống. Tất cả đã cho tôi
cảm giác rằng mình đã nhận được một kinh nghiệm rất kỳ diệu, rất phi thường và
điều này đã tạo nên một tác động mạnh mẽ trong tâm trí tôi.
TÔN
GIÁO
VÌ HẠNH PHÚC CỦA CON
NGƯỜI
Hiện có đến
khoảng năm tỷ người đang sống trên quả đất này, trong đó tôi nghĩ rằng họ
có thể được phân chia thành ba thành phần chính. Trước tiên, khoảng một phần ba
trong số này có đức tin tôn giáo, và đang theo đuổi một hành trình tâm linh;
như một đối cực, một phần ba khác phủ nhận tôn giáo như là một thứ độc dược
tinh thần và không làm gì khác hơn ngoài việc miệt thị nó; và cuối cùng một
phần ba còn lại gồm những người vô thưởng vô phạt, không theo và cũng không
chống tôn giáo.
Nhân loại, bao gồm cả
ba thành phần trên, nói chung đều có một ước vọng giống nhau là xa lánh khổ đau
và kiếm tìm hạnh phúc. Trên phương diện này họ chẳng có gì khác biệt nhau -con
người ai cũng nỗ lực hết sức mình tìm mọi cách để gặt hái thành đạt và hạnh
phúc cũng như chạy trốn khổ đau. Bây giờ chúng ta hãy thử làm một sự so sánh
giữa một bên là những người chấp nhận tôn giáo, có đức tin vào một cuộc sống
tâm linh và một bên là những kẻ đã chống lại một cách triệt để. Chúng ta
có thể ngạc nhiên tự hỏi giữa họ ai là người được hạnh phúc, có tâm hồn thoải
mái hơn -những người có tín ngưỡng hay là những người chống đối lại? Phải đợi
đến khi con người trực diện với những tình huống khó khăn, sự khác biệt sẽ xuất
hiện ngay như một bằng chứng. Những người không tín ngưỡng sẽ cảm thấy tâm hồn
họ lập tức bị rơi vào tình trạng giận dữ, buồn bực bởi vì họ không có gì để
chống đỡ lại những cảnh huống khó khăn đó. Thế nhưng đối với những người được
hổ trợ tinh thần bởi niềm tin tôn giáo sẽ cảm thấy niềm tin của mình được củng
cố thêm, tạo cho họ phương tiện tốt hơn để có thể đương đầu với vấn nạn một
cách trầm tỉnh.
Nếu bạn so sánh giữa
người giàu và người nghèo, hình như những người không có một đồng xu dính túi
thường là những người ít phải lo nghĩ hơn. Còn người giàu, có kẻ thì biết cách
sử dụng tài sản, sự giàu có của mình một cách thông minh, nhưng có kẻ không, và
tuỳ theo mức độ, điều mà ta dễ nhận thấy là họ bị chìm ngập trong những lo âu
bối rối thường xuyên, bị giày vò xâu xé giữa hy vọng và nghi vấn, cho dù bên
ngoài họ có vẻ như rất thành công trong mọi chuyện. Một điều chắc chắn rằng
cuộc sống tâm linh, tôn giáo quả rất là lợi lạc, hữu ích cho con người mỗi khi
phải trực diện với những nỗi khó khăn vượt ra khỏi năng lực bình thường của cá
nhân trong cuộc sống hàng ngày. Tôi thường bảo một số thân hữu rằng nếu quả
thật những người chối bỏ các truyền thống tâm linh có một cuộc sống cực kỳ hạnh
phúc thì chúng ta cũng nên từ bỏ tôn giáo đi cho rồi, bởi vì chúng ta tu
tập không ngoài mục đích tìm kiếm hạnh phúc và an lạc.
Các tôn giáo lớn trên
thế giới được liệt vào trong hai truyền thống chính. Một số tin vào một Ðấng
Sáng Tạo, một số khác đặt trọng tâm vào sự chuyển hoá tâm linh. Nếu ta có thể
chuyển hoá và điều ngự được tâm mình, tức là ta đạt đến tình trạng được gọi là
niết-bàn. Ngược lại, nếu ta không thể kiểm soát được nó, ta sẽ là những kẻ nô
lệ cho chính tâm mình, và sẽ mãi đắm chìm trong luân hồi sinh tử. Ðó là hai sự
khác biệt lớn lao. Tôi tin rằng tất cả mọi người đều có những khát vọng khác
nhau, thế nên đa tôn giáo quả thật là điều rất tốt và rất đáng tán dươ ng.
Phật giáo, Kỳ-Na giáo
(Jain), một bộ phận của trường phái triết học Số luận (Samkhya), truyền thống
Ấn giáo, đều là những truyền thống không tin tưởng vào một Ðấng Sáng Tạo. Thái
độ bất bạo động, không làm hại kẻ khác, và quan điểm về duyên khởi là hai phạm
trù chính nêu bật bản sắc đặc biệt của Phật giáo.
Nhưng thế nào gọi là
bất bạo động? Có thể nói một cách dễ hiểu rằng đó là thái độ không những không
chấp nhận bạo động mà còn thực hiện những điều tốt đẹp cho kẻ khác. Nếu không
thể làm được như vậy thì ít nhất ta phải tuyệt đối tránh làm những việc gây
thiệt hại cho kẻ khác.
Làm thế nào để thực
hành bất bạo động, và làm thế nào để đạt đến hạnh phúc, điều mà tất cả chúng ta
đang tìm kiếm? Những mục tiêu này đều tùy thuộc vào một số nguyên nhân và điều
kiện, sự cần thiết của khả năng kiểm soát, huấn luyện, và chuyển hoá tâm thức,
tất cả sẽ đưa ta đến tình trạng an lạc và hạnh phúc; ngược lại nếu ta không đủ
khả năng để thực hiện sự chuyển hóa này, ta sẽ rơi vào vòng đau khổ triền miên.
Chúng ta phải hành động theo một cung cách nào đó để cho những khát vọng của
ta, cũng là khát vọng chung của mọi con người -theo đuổi hạnh phúc và xa lánh
khổ đau- sẽ không trái nghịch với hậu quả gây ra bởi những hành động của chính
mình. Dĩ nhiên là chúng ta phải tận dụng mọi nguồn hổ trợ để đạt đến mục tiêu
này.
Khi chúng ta tìm cách
diễn đạt cho một người sơ cơ về cấu trúc của con đường dẫn đến giác ngộ, ta
thường nói đến ngũ đạo và thập địa (tiếng Phạn: bhumi). Và như thế, cứ lần hồi,
tinh tấn tiến bước trên con đường tu tập này sẽ đưa ta đến tình trạng nhất
thiết trí của Phật quả. Ta đồng thời cũng thường đề cập đến tam thân (kaya): Ðó
là Pháp thân (Dharmakaya), Báo thân (Sambhogakaya), và Hóa thân (Nirmanakaya).
Hai loại thân sau -Báo thân và Hóa thân- xuất hiện từ hư không của tri kiến của
Pháp thân, một mặt bằng tuyệt đối, được biểu hiện bởi hình tượng của một vị Cổ
Phật, Ðức Tổng Thể Phật (Samanta-bhadra), mà màu xanh là dấu hiệu tượng trưng
cho tính chất bất biến của Ngài. Chúng ta tắm gội trong ánh sáng của Ngài. Tổng
Thể Phật còn được biểu hiệu dưới một dạng nữ thân khác là Phật Mẫu
Samantabhadri. Tổng Thể Phật tượng trưng cho tình trạng nguyên thủy liên quan
đến đại hoan hỷ, trong khi Samantabhadri tượng trưng cho tình trạng tinh khiết
nguyên thủy.
Khi chúng ta nói về
Ngài Tổng Thể Phật hay Phật Mẫu Samantabhadri, chúng ta không xem các Ngài như
là những đấng thượng đế sáng tạo. Chính từ hư không của tri kiến và sự chứng
ngộ của các Ngài mà vòng luân hồi sinh tử và niết-bàn đã được tuyên xưng và
xuất hiện.
Dĩ nhiên quả là điều
quan trọng khi ta biết được những giai đoạn tiến triển khác nhau của tiến trình
tâm linh, nhưng đồng thời chúng ta cũng cần phải biết sống như thế nào trong
cuộc sống đời thường. Những vị đại sư của Cam-đan phái (Kadampa) đã nói rằng,
nhiều người trông có vẻ giống như những hành giả đang tu tập nghiêm chỉnh chánh
Pháp khi bao tử của họ căng đầy và được ngồi thoải mái dưới nắng ấm mặt trời,
nhưng rồi họ hoàn toàn đánh mất dáng vẽ này, trở nên giận dữ và cãi lộn lẫn
nhau, một khi họ bị bực mình trước những tình huống khó khăn. Ðó là điều mà
chúng ta cần phải tránh. Bởi vậy, điều quan trọng là ta phải thực hành giáo lý
của Chánh Pháp hằng ngày, ngày này qua ngày khác.
Những đức hạnh chủ yếu
nào ta cần phải trau dồi , tu dưỡng trong cuộc sống thường nhật? Trước tiên, đó
là lòng nhân ái, từ tâm, kiên nhẫn, và khoan dung; đồng thời cũng phải biết tri
túc, thỏa mãn với cuộc sống khiêm tốn, đơn giản -đó là những điểm được chia xẻ bởi
tất cả mọi tôn giáo.
Ðặc biệt, Phật giáo có
giúp được cho chúng ta phương cách nào để đạt đến mục tiêu thỏa mãn và an lạc?
Ðể giải thích điều này, thiết tưởng chúng ta cần phải nên biết đến luật nhân
quả, nghiệp báo, để hiểu rằng tình trạng bất toại ý được bắt nguồn từ vòng luân
hồi sinh tử, cũng như để biết cách làm thế nào để ta có thể chuyển hoá hạnh
phúc và nhận lấy những khổ đau của tha nhân làm của mình. Hận thù và ác tâm là
những mối nguy cơ lớn nhất cho hoà bình và hạnh phúc. Ðể có thể ngăn ngừa hận
thù và giận dữ có cơ hội mọc rễ trong ta, trước tiên ta phải tìm cách loại bỏ
cho được lòng bất mãn,bởi vì đó chính là cội rễ của hận thù và ác tâm. Ðể có
thể thực hiện được việc này, ta phải làm cho tâm của mình trở nên thanh thản,
rộng mở và thư giản. Bởi vì một khi ngọn lửa thù hận đã bùng cháy lên với tất
cả sức mạnh của nó, ta khó mà tìm ra phương thuốc để chữa trị. Cho nên điều
quan trọng là ta phải phòng ngừa, ngăn cản những gì có thể làm cho lòng hận thù
phát khởi.
Sự thù nghịch, gây hấn
và hận thù là những sản phẩm chính của lòng bất mãn, và để ngăn ngừa cái tình
cảm bất toại ý này phát sinh, chúng ta phải giữ cho tâm mình ở trong trạng thái
hoàn toàn thanh thản, rộng mở, và bao dung, cũng như luôn luôn thoải mái với
chính mình. Trái lại, nếu tâm ta chật hẹp, khép kín thì cho dù chỉ một sự kiện
nhỏ xảy ra cũng sẽ làm cho ta bực bội, bất mãn và cảm thấy mình bị thương tổn,
bất toại ý mà hậu qủa sẽ dẫn ta đến giận dữ và oán thù. Thế nên điều quan trọng
là ta phải luôn giữ cho tâm mình ở trong trạng thái quân bình, rộng mở, và
thanh thản. Hạnh phúc của chúng ta luôn gắn chặt với hạnh phúc của kẻ khác. Nó
tuỳ thuộc sâu xa vào tất cả những người sống quanh ta. Thế nên chúng ta phải
luôn ý thức điều này để mỗi khi cảm thấy hạnh phúc, thỏa mãn chúng ta phải nhận
ra rằng mình đang mang một món nợ ân nghĩa đối với lòng nhân ái của tất cả mọi
người.
Trong đời sống này có
thể là chúng ta sẽ có kẻ thù, những người có ý muốn hoặc đang thật sự hảm hại
ta. Tuy nhiên yếu tính căn bản của Phật giáo, đặc biệt Phật giáo Ðại thừa, là
lòng nhân ái, từ bi và bồ đề tâm, tâm thức của giác ngộ. Thế nên nếu sự giận dữ
và thù hận phát khởi trong ta, sức mạnh của lòng từ và tinh thần giác ngộ của
ta phải có đủ năng lực để chống lại chúng. Bởi vậy nhẫn là một đức tính cần thiết
mà mỗi người Phật tử cần phải có. Không có hạnh nhẫn nhục không thể thực hành
được Bồ Tát Ðạo. Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ về điều này, thì vấn đề chính
yếu là làm thế nào để cho nhẫn nhục được thực hiện và phát triển trong
cuộc sống đời thường? Nhẫn nhục cần sự có mặt của kẻ thù -một điều rất rõ ràng
là chúng ta không cần phải thực hành nhẫn nhục đối với Ðức Phật, vị tôn sư, hay
người bạn tinh thần của mình. Ngược lại, nhẫn nhục chỉ có thể được thực hiện
đối với những kẻ muốn hảm hại ta, những kẻ mà ta gọi là “kẻ thù”, qua đó nhẫn
nhục mới thực sự được nuôi dưỡng và phát triển. Chính kẻ thù đã giúp ta một cơ
hội duy nhất để thực hành hạnh nhẫn nhục và qua đó phát triển được tất cả những
phẩm chất qúy giá của Bồ Tát Ðạo. Như vậy thay vì xem kẻ thù như là một cái gì
đó rất khó ưa, ta ngược lại phải đối xử với họ bằng lòng kính trọng và sự biết
ơn, bởi vì họ đã cho ta cơ hội duy nhất này để thực hành Bồ Tát Ðạo.
Một khi đã chứng tỏ
được lòng nhân ái và vị tha của mình, ta đồng thời cũng sẽ trở nên can đảm và
vững tâm trước mọi chuyện; thế nên những ngày đi qua trong đời ta sẽ thắm đượm
với hạnh phúc, thanh thản và thỏa mãn. Mặc dù cá nhân tôi không có nhiều kinh
nghiệm trên lãnh vực này, tôi vẫn luôn cố gắng thực hiện những điều nhẫn
nhục nhỏ nhất có thể có được.
Chúng ta sẽ không bao
giờ ngưng tiến bộ và nhận thức rằng nếu ta thực hiện được điều này ngày này qua
ngày khác, tháng này qua tháng nọ, năm này đến năm kia, đời này sang đời khác
ta sẽ đạt đến nỗi hạnh phúc vô bờ.
Theo Ngài, Phật Pháp
có thể giúp ích được gì cho Tây Phương?
Trong xã hội Tây
phương, nói chung những anh chị em huynh đệ của tôi, những tu sĩ hay nữ tu Cơ
Ðốc giáo, hoặc là những tín đồ đang tu tập, Phật giáo có thể mang lại cho họ
những trợ giúp cần thiết để phát triển thêm tình yêu thương, từ ái, được coi
như là những phẩm chất cốt lõi của bất kỳ tôn giáo nào. Ðồng thời nó cũng giúp
phần nào trong vấn đề cải thiện thiền tập.
Thưa Ngài, làm thế nào
để đời sống tâm linh và thế tục có thể hoà điệu cùng nhau?
Khi nói đến những sinh
hoạt thế tục, chúng ta thường đề cập đến tám vấn đề quan tâm chính yếu của
người đời: đó là những ý tưởng liên quan đến tầm mức quan trọng mà chúng ta
thường gắn bó với niềm vui và đau khổ, sự được thua thành bại, tăm tiếng và vô
danh, việc được ca tụng hay bị chỉ trích. Tám mối quan tâm này có những mức độ
khác nhau mà tuỳ theo trường hợp có thể hoàn toàn trở nên tiêu cực, trung hoà,
hay rất mực tích cực. Trong những trường hợp cực đoan nhất, tâm của người đời
nặng về đời sống thế tục thường bị tràn ngập bởi những tình cảm hận thù, hoặc
tham vọng muốn chiếm hữu mọi thứ về cho mình cho dù phải gây tổn hại hay dối
lừa kẻ khác. Trong trường hợp như thế dĩ nhiên nó đã đi quá xa đối với những
đòi hỏi về tâm linh. Ngược lại trong những trường hợp mà những hoạt động
thế tục được thúc đẩy bởi những tình cảm cao qúy, chẳng hạn như những người có ý hướng muốn tham gia vào việc điều hành kinh tế cho một quốc
gia, hay khu vực nào đó mà động cơ chính là lòng nhân ái hoặc vì quan tâm đến
phúc lợi của kẻ khác, thì vấn đề hoà điệu giữa đời sống tâm linh và thếù
tục quả là một vấn đề rất đơn giản.
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
TỪ BI
Thay
mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những
người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả
hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy
vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.
Hôm
nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồn. Lý
do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với
tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng
tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều
biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi
giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn
hoá đó.
Mặc
cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta
bảo tồn được sự thanh thản và an bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có
dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ
về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phải
cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn
tôi khá lâu về sức mạnh và tình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã
rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người
Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được
đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại
tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.
Tôi
xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu
viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm
1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong
khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của
Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể
lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua.
Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng
thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng
từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu
tâm!
Tôi
thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung
Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù
ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không
trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói
hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi,
tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.
Cũng
có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật
giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo,
nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của
thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao.
Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi
đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại
một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng
đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu
linh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được
tâm hồn mình, bình an, thư thái.
Trong
một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn
Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất
hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có
thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.
Làm
thế nào để phát triển sự bình an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản
tánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là
không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản
chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mến và nhân ái. Từ
ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó
chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tế mà mọi người
đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương
thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những
đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái
chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những
căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương
yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ
và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then
chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi
chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là
một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa
trẻ.
Chúng
ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm
tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn
hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang
giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng
những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm
tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau
ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng
thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.
Con
người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ
thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ
thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá
trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động
đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là
ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của
vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta
luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm
hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có
cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta
thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh
thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.
Tư
tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước
tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực và
loại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự
bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng
nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị
vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một
phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà
chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữ và hận thù có
vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm
thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri
thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương
tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ
nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp
trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà
chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cách
đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.
Từ
đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt
đẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng
những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho
dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua,
không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài
trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những
việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng
quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác
bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến ta
thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng
chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ
kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên
trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận
chúng một cách dễ dàng.
Ðể
huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ
trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí
một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ
có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn
toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi
nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương
tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo
thời gian.
Làm
thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường
hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là lòng từ bi, giận dữ có thể là một khía
cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta
phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn
khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận
thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối
cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác
nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân
loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ
khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ.
Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa
rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con
người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách
mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.
Nhìn
vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành
công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có lòng vị tha và tâm hồn
bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc
sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một
cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự
tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó,
nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.
Chúng
ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma
Gandhi, một nhân vật kiệt xuất có ý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống
rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền
giáo dục Tây phương và ý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống
tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa
sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày.
Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất
cả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của
những tình cảm tích cực này của tâm hồn.
Kinh
nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức
độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và
cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn
bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát
triển tâm hồn mình.
Con
người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận
rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người
đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra
không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng
ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình
thân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu
khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng
thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta
chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến
quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ
đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục
tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả
những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã
trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ
của chúng ta.
Một
số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta
bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy
dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng
mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang
có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm
banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt
đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất
khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền
bạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vật
thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.
Từ
bi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn
giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có
tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng
tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các
tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến
khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi
tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau.
Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ được
tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình
tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương
kính.
Tuy
nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con
người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao
truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít
mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ
còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân
loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một
tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắt
nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy
nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm của
họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những
khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía
cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy
trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên
chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất
đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước
khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong
hướng đó!
Thưa
Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi
thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba
mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các
trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra
tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng
cách nào chúng ta có thể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản và
đức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi
giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng
nhất?
Ðiều
quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm
nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết
qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn
ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu
hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình
nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị
vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần
của mỗi cá nhân.
Với
những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tục
chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý
kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên,
cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa
ta đến con đường minh triết?
Tôi
tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra
bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe
chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù
với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên,
là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã
sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những
dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta
vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó
như đã ở trong máu huyết của chúng ta.
Trong
quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật
điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn.
Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữ. Chúng ta dùng
củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng
của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với
cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta
là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên
đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường
khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta
biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một
sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng
ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính
mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo
con đường Trung Ðạo.
Trong
trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và
sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường
mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào
một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống
mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ
thuật ức chế này?
Tôi
nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số
trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi
bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều
này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức
kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta
tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi
đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện
xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy
của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không
có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cực là vô tận.
Tuy
nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức
chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tập
với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là
chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được
nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ
tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng
ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế
được vô minh!