Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bạt

15 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7850)
Bạt

T U B Ụ I

Truyện dài của Trần Kiêm Đoàn
TITAN Corporation xuất bản 2006

BẠT

Đọc

TU BỤI

của

Trần Kiêm Đoàn

 

Tôi hân hạnh được làm một trong số vài độc giả đầu tiên của tác phẩm TU BỤI ngay sau khi nó vừa được đánh máy xong. Nhìn qua nhan đề tác phẩm, tự nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ vui vui. “Tu” thì hiểu đại khái rồi. Tác giả Trần Kiêm Đoàn là người quán triệt triết lý và lịch sử Phật Giáo - trên hai địa hạt này ông có cái nhìn bao quát hơn nhiều vị trong hàng tăng lữ Phật Giáo - nên ông có đi thêm một bước tới chỗ “tu” thì cũng không làm ai ngạc nhiên cả. Nhưng còn “bụi” nghĩa là gì? Phải chăng Trần Kiêm Đoàn bỗng dưng đâm ra lập dị đến nỗi phải bỏ công viết sách xui giục đạo hữuđộc giả kéo nhau vào chốn lùm bụi mà tu hành? Sự suy đoán khôi hài này chưa kéo dài tới nửa phút thì tôi sực nhớ lại cái nghĩa thông thường mà tín đồ Phật Giáo ưa dành cho chữ bụi: bụi bậm trần gian. Nhưng phải đọc xong tác phẩm TU BỤI tôi mới kết hợp được “tu” với “bụi” qua hình ảnh những con người chấp nhận dấn thân, sẵn sàng lăn xả vào giữa bụi bậm trần gian mà không để cho nó bám chặt vào tâm của mình. Lao thân vào bụi, đồng thời phủi bụi khỏi tâm, đó chính là tu bụi vậy!

Thật là một sự trùng hợp lý thú. Cách đây mấy tháng, bốn tác giả Cao Thanh Tâm, Lưu Trần Nguyễn, Tôn Thất Sang và Ngô Viết Trọng đã cùng nhau “Khuấy Bụi Thời Gian”. Giờ đây tới phiên Trần Kiêm Đoàn phủi bụi thời gian! Bụi thời gian, bụi trần gian, cũng đều là bụi thôi, có người khuấy, phải có người phủi! Mới ghé mắt vào chỗ tựa đề, chưa tới đâu xa trong tác phẩm, thế mà đã phải suy nghĩ rồi! Suy nghĩ nhưng vẫn thoải mái, vui vẻ, không biết mệt nhọc chi cả.

Đã hết đâu! Nhìn xuống dưới một chút tôi chỉ thấy một khoảng trống không ở nơi thông thường dành cho phần giới thiệu thể loại của tác phẩm. Tôi đinh ninh đây là một sơ sót về kỹ thuật ấn loát chớ tác phẩm này nhất định phải là tiểu thuyết rồi. Có lý do khiến tôi tin như thế.

Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã chứng tỏ tài năng qua nhiều thể loại tản văn như tùy bút, truyện ký, truyện ngắn, bút luận (triết lý, tôn giáo, văn nghệ, chính trị) v.v... Nếu chỉ nhìn văn phong bút pháp chớ không kể tới tư tưởng thì nhiều người thấy Trần Kiêm Đoàn đã kết hợp lại được nơi ông những gì có thể nói là tinh hoa của Nguyễn Tuân, Thạch Lam và Vũ Khắc Khoan. Tuy nhiên, dù mến mộ văn tài của Trần Kiêm Đoàn, độc giả vẫn trông chờ nơi ông một con người văn nghệ mới lạ chưa từng gặp, một tiểu thuyết gia. Bởi thế nên khi thấy tác phẩm nào của ông mà có độ dày, người đọc đương nhiên yên trí đó là tiểu thuyết. Phần tôi, khi đọc xong chương cuối của TU BỤI, tôi cảm thấy ngần ngại không biết nên xếp nó vào thể loại nào và tôi nghĩ ông Trần Kiêm Đoàn có lý do chính đáng để không công bố thể loại tác phẩm ở ngay phía dưới tựa đề. Khoảng một tháng sau ngày tôi tiếp nhận bản thảo TU BỤI, tuần báo Làng số 397 ngày 04/08/06 đăng tải bài Duyên Tu của Trần Kiêm Đoàn, phía dưới có ghi câu “Trích chương 27, truyện dài TU BỤI”. Thế là tác giả Trần Kiêm Đoàn đã chịu xếp loại cho tác phẩm của mình rồi. Nhưng tôi có cảm tưởng ông vẫn chưa được hoàn toàn thỏa mãn với lối xếp loại này, bởi lẽ truyện dài TU BỤI của ông không giống các truyện dài khác trong cấu trúc tổng quát. Thật vậy, theo quan niệm thông thường thì truyện dài hay tiểu thuyết cũng chỉ là hai từ khác nhau dùng để nói về một thể loại mà căn bản là một cốt truyện thuần nhất, liên tục, trong đó phần này liên hệ chặt chẽ với phần kia chớ không tách rời nhau được. Yếu tính trên đây hiện ra khá mờ nhạt trong tác phẩm TU BỤI. Lấy đại một chương nào đó của TU BỤI ra mà xem riêng, độc giả vẫn hiểu được như thường! Người đọc không biết trước và sau chương đó các nhân vật làm gì, nói gì, nghĩ gì, nhưng người đọc không hề cảm thấy bứt rứt nôn nóng muốn biết những chuyện đó như khi đọc một truyện dài thông thường. Thật là kỳ lạ! Độc giả bị lôi cuốn vào từng chương một đến nỗi không còn quan tâm tới cốt truyện tổng quát nữa. Trần Kiêm Đoàn đã lần lượt cho đăng báo một số chương trong TU BỤI, xem như đó là những truyện ngắn riêng biệt với nhau. Tôi không nghĩ ông muốn quảng cáo trước những tác phẩm của mình. Tôi tin đây là một trắc nghiệm khả dĩ giúp tác giả thẩm định lại độ biệt lập giữa các chương; qua kết quả trắc nghiệm, tác giả sẽ định tính chính xác hơn thể loại mà ông vừa sáng tạo ra. Có thể nói không quá lời rằng tác phẩm TU BỤI là một bộ trường thiên tiểu thuyết nhiều tập (roman à cycles) được cô đọng lại, mỗi chương tương đương với một tập. Đặc tính các bộ trường thiên tiểu thuyết [chẳng hạn như bộ Đi Tìm Thời Gian Đã Mất (À La Recherche Du Temps Perdu) của Marcel Proust hay bộ Xóm Cầu Mới của Nhất Linh] là các tập có thể được xem riêng rẽ với nhau bởi lẽ chúng có chung nhau các nhân vật chính nhưng lại được xây dựng trên những cốt truyện khác nhau. Phải chăng Trần Kiêm Đoàn tạo thể loại mới để dùng nó làm bàn đạp nhảy vọt sang trường thiên tiểu thuyết? Nhìn cấu trúc tác phẩm một cách bao quát thì thấy như thế, đào sâu vào từng chương một thì lại gặp nhiều kỳ thú lạ lùng hơn nữa (sẽ đề cập tới sau), khiến tôi không ngăn được ước ao tác giả không xếp loại cho tác phẩm của mình mà dành công việc này cho từng độc giả một.

Bây giờ xin thử nhìn vào cốt lõi của vấn đềgiá trị của tác phẩm. Như đã nói trên, có thể độc giả không tha thiết với sự liên tục của cốt truyện, thái độ này cho thấy sức cuốn hút của tác phẩm không đến từ cốt truyện. Cũng phải thôi! Vài ba nhân vật tình cờ gặp nhau, sống với nhau trong những hoàn cảnh không có chi éo le lắm, rồi tất cả lần lượt rời bỏ trần thế, ngoại trừ một vài người không ai biết đi đâu, không ai biết sẽ làm gì... Câu chuyện đòi hỏi ít động tác, lại diễn ra trầm trầm. Đã vậy tác giả không nỗ lực phân tích tâm lý nhân vật đến tận cùng. Có vẻ như ông muốn tạo ra ấn tượng về sự nhẹ nhàng trống không trong nội tâm của họ. Các yếu tố dùng làm lực thôi tống cho một truyện dài thông thường đã vắng bóng ở TU BỤI. Ấy thế mà độc giả vẫn cứ muốn đọc tiếp tiếp theo mãi. Vậy cái ma lực nào đã thúc đẩy độc giả đi tới tận cùng của tác phẩm? Nhìn đi nhìn lại, tôi không tìm thấy ma lực nào khác ngoài cái ma lực toát ra từ những suy tư triết lý nằm rải rác khắp nơi trong tác phẩm không cần theo thứ tự nào cả. Độc giả muốn đọc tiếp theo mãi không phải để biết câu chuyện diễn biến và kết thúc ra sao, mà để mong gặp được một vài chân lý thấm thía đang chờ đợi họ ở một nơi nào đó trong tác phẩm. Trần Kiêm Đoàn đã đến với độc giả Việt Nam như Jean Paul Sartre và Albert Camus đã đến với độc giả Pháp hơn nửa thế kỷ trước đây!

Trong TU BỤI, các diễn biến, các nhân vật thật ra chỉ còn là những cái cớ, cái dịp để giúp độc giả tiếp nhận suy tư triết lý. Chẳng hạn như trận cờ quyết đấu trên sông Hương giữa Trí Hải và Hàn Kỳ Vương được xây dựng để chuyển đạt tới độc giả những suy tư về định kiến, về những quan hệ giữa tâm tư và hành động... Tương tự, trận dịch hạch đang tàn phá kinh thành cũng tạo điều kiện để xét lại ý nghĩa cuộc sống, để nhìn lại chuyện nhân, chuyện quả... (Đọc chương Tu Giữa Bụi Trần nói về chuyện dịch hạch không thể không liên tưởng tới truyện dài Dịch Hạch (La Peste, 1947) của Albert Camus, mặc dù nếp suy tư của hai tác giả Pháp, Việt có khác nhau).

Nhân tiện xin đề cập tới bản chất dòng tư tưởng mà Trần Kiêm Đoàn đã cho tuôn chảy qua TU BỤI. Ở phần đầu tác phẩm, ông suy nghĩ mông lung về con người, về cuộc đời. Tới phần cuối, ông chuyển hướng rõ rệt qua phía giáo lý Phật Giáo. Độc giả thấy ông tha thiết muốn trở về với những gì là tinh túy nhất của Phật Giáo thời nguyên thủy, thời chưa bị tha hóa biến chất, đồng thời cũng muốn thích ứng đạo mình vào đời sống hiện tại trên thế giới. Ở phần đầu, TU BỤI là một tiểu luận triết lý được tiểu thuyết hóa, ở phần cuối nó là một giảng luận Phật học cũng được tiểu thuyết hóa! Thêm một lý do nữa để không áp đặt quá sớm tên thể loại của tác phẩm này. Dành công việc đó cho độc giả là ổn nhất...

Viết tới đây tự nhiên tôi sực nhớ lại một chuyện vui vui về Tu Bụi mà tôi đã sống qua: dùng cảm quan để thưởng lãm và dùng lý luận để phê phán nhiều khi dẫn tới kết quả trái ngược nhau. Chẳng là sau khi đọc xong quyển TU BỤI, tôi cố nặn óc tìm xem (để giải trí vậy thôi) tác giả có để lộ sơ hở nào không khi viết quyển này. Cố tìm thì phải ra thôi. Và ra được bốn điểm sau đây:

Trước nhất, câu chuyện của TU BỤI xảy ra khoảng thời gian mấy mươi năm từ khi Gia Long thống nhất sơn hà tới sau khi Minh Mạng lên ngôi, nhưng ngôn ngữ của các nhân vật lại lắm khingôn ngữ của triết gia, chính khách, nghiên cứu gia thời cuối thế kỷ hai mươi và đầu thế kỷ hai mươi mốt.

Thứ hai, hình ảnh một vài nhân vật đã mang nét hư cấu đậm hơn hẳn so với các nhân vật khác. Chẳng hạn như Ba Gấm trước là cung nữ, sau là phu nhân của quan Tổng Chánh Chưởng Thân Binh. Trang phục, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, tư tưởng v.v... tất cả nơi Ba Gấm đều thắm đượm phong vị Tây phương khiến tôi hơi hoài nghi về khả năng hiện hữu của một người mệnh phụ phu nhân như vậy vào thời Minh Mạng, mặc dù tác giảgiải thích là nhờ thường xuyên buôn bán tiếp xúc với người ngoại quốc nên Ba Gấm mới có được cái phong cách đó.

Thứ ba, một số hiện tượng mô tả trong tác phẩm e không hề được thực sự trông thấy trong lịch sử. Điển hình là chuyện hai chị em ruột cùng cư ngụ tại kinh thành nhưng lại “không thể nhìn được mặt nhau” chỉ vì một người là tín đồ của Phật Giáo của Bắc Tông (được triều đình nhìn nhận và nâng đỡ), còn người kia là tín đồ của Phật Giáo Nam Tông (tự cho rằng mình bị triều đình “cấm đoán hành đạo”). Thật ra hầu hết dân Việt Nam đều theo Đại Thừa Bắc Tông, chỉ riêng ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng của miền Tây Nam Việt mới thấy có sự hiện hữu của phái Tiểu Thừa Nam Tông mà tất cả tín đồ đều có gốc gác là người Miên. Tín đồ Đại ThừaTiểu Thừa lại không thấy quyết liệt chống đối nhau bao giờ cả. Có lẽ tác giả Trần Kiêm Đoàn bị ám ảnh bởi sự phân hóa của Phật Giáo ngày nay tại Việt Nam nên ông chuyển vị nó vào lịch sử, rồi cường điệu hóa thêm một chút để có lý do nỗ lực đi tìm cho nó một giải pháp thỏa đáng.

Thứ tư, các nhân vật đều thông minh, sâu sắc, kiến thức rộng rãi, thường xuyên ở tư thế suy tư và xét lại. Cứ soi mói nhìn kỹ một chút, người ta sẽ thấy thấp thoáng ngoài sau mỗi người trong họ bóng dáng của tác giả Trần Kiêm Đoàn! Họ vui sướng hay ưu tư phiền muộn, họ đàm đạo hay tranh luận với nhau, tất cả chỉ là hiện tượng biểu kiến. Thực chất chính là ông Trần Kiêm Đoàn đang vui sướng, đang phiền muộn, đang suy tư, đang nói với chính mình!

Mới hí hửng được mấy phút về những điều mình khám phá ra thì tôi lại cảm thấy buồn cười về cái vô duyên của chính mình. Phải mà, khi đang đọc TU BỤI tôi đâu có nghĩ ngợi chi li về các tiểu tiết trên đây. Tôi cũng đâu còn nhớ tới Trí Hải, Phạm Xảo, Thầy Tiều... và cả Trần Kiêm Đoàn nữa, tôi cũng quên luôn! Tôi cứ tưởng tượng như thể tôi đang nói với chính tôi chớ không phải họ đang nói với nhau. Y như trường hợp một người nghe đàn, chỉ lắng nghe tiếng đàn chớ không tự hỏi ai là người đang đánh đàn, ai là người đã soạn ra bản nhạc, họ làm ăn sinh sống ra sao. Chỉ sau khi tiếng đàn chấm dứt thì cá nhân người đánh đàn và người soạn nhạc mới có thể được quan tâm tới. Tương tự như vậy, khi đọc truyện võ hiệp thấy một kiếm khách phóng mình bay lên nóc nhà đuổi theo địch thủ, có ai phì cười bảo rằng tác giả phịa chuyện nói dóc đâu? Người ta cứ tưởng tượng mình chính là tay kiếm khách đó chớ!

Thật ra khi viết lách, không tác giả nào tránh khỏi sơ sót, tránh khỏi cường điệu cả. Nhưng lắm lúc phải dùng tinh thần “chẻ sợi tóc ra làm tư” mà nhìn thì mới thấy được các khuyết điểm này. Phê bình gia có thể làm việc đó với tác giả, nhưng độc giả thì không. Độc giả (bao gồm luôn cả các phê bình gia đang thưởng thức tác phẩm) luôn luôn thông cảmlắm khi đồng lõa với tác giả nữa (trong việc tưởng tượng ra chuyện hư cấu).

Một tác phẩm văn nghệ được đánh giá qua dư âm mà nó để lại nơi lòng người. Thông thường dư âm đó được tạo nên bằng sự mô tả cuộc đời một cách tinh tế. Trong TU BỤI, Trần Kiêm Đoàn không mô tả cuộc đời, ông chỉ mượn cuộc đời để chuyển đạt nhân sinh quan và vũ trụ quan của ông mà thôi. Nhưng ông vẫn tạo được dư âm trong lòng độc giả bằng những suy tư về kiếp người. Sáu mươi bốn năm trước đây, văn triết gia Albert Camus cũng đã chuyển đạt suy tư triết lý của mình đến độc giả Pháp qua tiểu thuyết Người Xa Lạ (L'Etranger, 1942). Lúc đầu, tác phẩm này bị độc giả tiếp nhận trong thờ ơ lạnh nhạt vì họ chưa hiểu được Camus, thời đó chỉ là một tác giả mới, chưa có tên tuổi. Với tác phẩm TU BỤI, Trần Kiêm Đoàn không lâm vào hoàn cảnh của Albert Camus bởi lẽ ông đã lỡ nổi tiếng rồi. Nhưng ông cũng không hưởng được niềm vui sướng, nỗi xúc động của một nhà văn lúc đầu bị xem thường, về sau lại được hoan nghênh!

Khi TU BỤI ra mắt độc giả, dư luận ắt sẽ thắc mắc về chuyện ông Trần Kiêm Đoàn sẽ làm gì trong tương lai? Ông sẽ đi rao giảng và thực hành cái giáo lý Phật Giáo canh tân mà ông vừa sáng tạo ra? Ông còn say sưa giúp đỡ các chiến hữu tư tưởng của ông nữa hay không, các chiến hữu vốn dĩ đã và đang đặt trọn sự tin cậy của họ nơi ông? Hay ông lại tiếp tục suy tư mông lung như một người trí thức suốt đời đi tìm chân lýchưa bao giờ gặp được chân lý? Thời gian sẽ giải đáp câu hỏi đó.

 

 

Tống Diên

 

California, tháng 8 năm 2006


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19757)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20848)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19153)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40359)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21165)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40950)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24013)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22970)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17755)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26790)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20629)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33501)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28718)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12628)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25080)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17408)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25580)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28876)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31099)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18150)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24393)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19387)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17818)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22869)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17957)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31987)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17299)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17330)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16007)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20696)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17942)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20022)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14772)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20801)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15689)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12865)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14441)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29246)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12693)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14435)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant