TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
–
Hạng tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình.
–
Hạng hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
–
Hạng vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình; vừa
hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
–
Hạng không tự làm khổ mình, không chuyên tâm tự làm khổ
mình; cũng không làm khổ người, không chuyên tâm làm khổ
người.
Bốn
hạng
người trên, đời nào xứ nào cũng có. Mặc dù những
lời dạy đã cách xa chúng ta trên hai ngàn năm trăm năm, trải
qua không biết bao lần “tam sao thất bổn” chúng ta khi đọc
lại tạng kinh gần nhất thời Phật này, đã phải ngạc nhiên
thích thú trước tinh thần hài hước của Đức Thế Tôn,
một nhà tâm lý siêu việt. Ngôn ngữ dầu có đổi thay qua
25 thế kỷ, tinh thần mà ngôn ngữ ấy nói lên vẫn rất mới
mẻ đáng truy tầm. Ta hãy xét bốn hạng người mà Phật đã
ám chỉ, theo khoa học phân tích tâm lý ngày nay:
1.
Hạng
thứ nhất: là hạng người mang một chứng tâm bệnh
gọi là masochism (tự hành hạ, có khuynh hướng tự hành khổ)
đó là hạng người ưa thương vay khóc mướn, như Kiều:
Lại
mang
lấy một chữ tình
Khư
khư
mình buộc lấy mình vào trong
Vậy
nên
những chốn thong dong
Ở
không yên ổn, ngồi không vững vàng
Đang
là
một cô gái con nhà khuê các, đi chơi gặp nấm mồ vô
chủ của một kỹ nữ, Kiều đã nghĩ ngay đến thân phận
mình:
“Thấy người nằm đó biết sau thế nào!”
Ta
phải
ngạc nhiên trước thái độ của Kiều, sự lân mẫn
xót thương nơi nàng đối với nấm mồ vô chủ đã vượt
quá giới hạn từ bi, trở thành bệnh hoạn, bệnh “tự hành
khổ mình”. Cái gì mà vừa nghe cậu em Vương Quan mới dẫn
gần xa cái tiểu sử dở hơi của cô gái dưới mồ (cậu
này cũng lạ, còn nhỏ tuổi mà đã thuộc vanh vách tiểu sử
của một gái làng chơi!), Kiều đã:
Thoắt
nghe
nàng đã đầm đầm châu sa
Đau
đớn
thay phận đàn bà
Lời
là
bạc mệnh cũng là lời chung
Suốt
cuộc
đời 15 năm đoạn trường của nàng Kiều chỉ là hậu
quả của sự “vận vào khó nghe” ấy. Vì chuyên “vận
vào” cho nên:
Ma
đưa
lối quỷ đem đường
Lại
tìm
những chốn đoạn trường mà đi.
Tuy
nhiên
sự tự làm khổ của Kiều không phải hoàn toàn vô
ích, ít ra Kiều đã chuộc được cha. Có những sự tự hành
khổ mà không chuộc ai được mới đáng ức: đó là sự tự
hành khổ của những người tu khổ hạnh không đưa tới giải
thoát, mà vẫn chấp chặt lấy khổ hạnh ấy. Phật gọi là
“giới cấm thủ kiến”. Những nhà tự hành khổ này đặt
ra nhiều giới luật quái gở được kể nhan nhản trong Kinh
tạng Pàli, đượm vẻ dí dỏm khôi hài: liếm tay cho sạch
(không chịu rửa tay), đi khất thực không chịu bước tới,
không nhận đồ ăn ở chỗ có chó đứng, có ruồi bu, không
nhận đồ ăn từ nơi miệng nồi, miệng chảo, không nhận
tại ngưỡng cửa, tại cối giã gạo, không nhận từ hai người
đang ăn... Chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một
miếng, hay chỉ ăn tại hai nhà, chỉ ăn hai miếng. . . Có lẽ
những người chuyên tâm tự hành khổ ấy nghĩ rằng giữ
giới càng khó theo càng được nhiều phước, nên ta không
ngạc nhiên khi ở thời Phật có những vị hành trì cẩu hạnh,
ngưu hạnh nghĩa là sống như chó hay như trâu bò trong một
thời gian dài với tin tưởng rằng do hạnh ấy sau khi chết,
sẽ được sinh lên cõi trời. Một vị hành giả thuộc loại
này đi đến Thế Tôn hỏi về số phận tương lai của một
người hành trì cẩu hạnh, ngưu hạnh một cách viên mãn sẽ
ra sao. Ngài đáp: “Ai hành trì cẩu hạnh một cách viên mãn
thì sẽ được sanh trong loài chó, nếu hành trì cẩu hạnh
với niềm tin sẽ được sanh cõi trời thì tương lai sẽ có
hai khả năng: một
là
sẽ
được sanh làm chó nếu hành trì cẩu hạnh một cách
viên mãn, hai là sanh vào địa ngục nếu hành trì không viên
mãn” (sinh địa ngục do tức giận, vì cứ tưởng nhờ cẩu
hạnh mà sẽ được sinh lên trời, té ra không). Người ta
có thể nghĩ rằng hạng người hành trì ngưu hạnh, cẩu hạnh
(bắt chước trâu, chó) chỉ có mặt vào thời bán khai xa xưa
ấy, chứ thời văn minh ngày nay làm gì có? Nhưng không, nó
vẫn tồn tại dù dưới hình thức hơi khác: tuy không mang
lông đội sừng cho giống như trâu như chó, con người ngày
nay làm việc còn nhiều hơn loài trâu, tham gặm xương khô
(mồi danh bã lợi) còn dai dẳng hơn loài chó.
2.
Hạng
thứ hai: là người làm khổ kẻ khác, chuyên tâm làm
khổ kẻ khác. Tâm phân học gọi đó là chứng sadism, nghĩa
là ưa gây đau khổ cho người và vật. Hạng này không thiếu
trên đời, xưa cũng như nay. Ta nhớ trường hợp vua Lê Long
Đĩnh (Ngọa triều) ưa róc mía trên đầu thầy chùa cho chảy
mláu chơi. Phật kể đến một số người hành các nghề ác
như đồ tể, bán buôn khí giới, đao phủ, buôn bán quan tài
và vật tẩn liệm...
3.
Hạng
thứ ba: là hạng vừa tự làm khổ mình, chuyên tâm làm
khổ mình; vừa làm khổ người, chuyên tâm làm khổ người.
Đây là hạng người có cả hai chứng bệnh vừa kể trên.
Kinh Kandaraha (Trung bộ kinh 2, tr.334) mô tả những ông vua làm
tế đàn cúng thần: “Vị này. . . cạo bỏ râu tóc, đắp
áo da thô, toàn thân bôi dầu, gãi lưng với một sừng nai,
đi vào giảng đường với bà vợ chính và một Bà la môn
tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống giữa đất có lát cỏ. Vua
sống với sữa từ vú một con bò cái, có con bò con cùng mầu
sắc, bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai, vị bà
la môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Còn sữa từ
vú thứ tư thì dùng để tế lửa. Con nghé con thì sống với
đồ còn lại (còn được cái gì?) Ông vua ra lệnh giết vô
số bò đực, bò cái, nghé con, dê, cừu để tế lễ, chặt
vô số cây cối để làm cột tế đàn. Những người phục
dịch vì sợ đòn gậy, sợ nguy hiểm với mặt tràn đầy
nước mắt khóc lóc làm các cô ng việc...”
Hạng
thứ
ba này thường được thấy trong những trường hợp “oan
gia tụ hội”: cha mẹ, vợ chồng, con cái... không hợp nhau
mà vẫn phải sống đời với nhau, không thể xa nhau bởi vì
họ cần... tự làm khổ và làm khổ nhau. Hóa ra “yêu nhau
thì lại bằng mười phụ nhau”. Có một câu ngạn ngữ Pháp
diễn tả rất đúng nỗi khổ của những cặp oan ương: “Có
em tôi chết cái một, không em tôi chết dần chết mòn” (Avec
toi je suis mort, sans toi je m'en meurt). Những người chết đuối
chưa tắt hơi, điều tối quan trọng là đừng cho người thân
tới gần, có bóng dáng một người thân nào (càng thân càng
mau chết) lai vãng, mà nạn nhân hé mắt dòm thấy được tức
thì hộc máu chết liền. Vì có người thân trong lúc nguy cấp
thì chỉ thêm rắc rối vấn đề không thể cứu vãn do bởi
sự xúc cảm quá độ của đôi bên ảnh hưởng lẫn nhau.
Phật dạy: “Sầu bi khổ ưu não do ái sanh, hiện hữu từ
nơi ái.”
Chúng ta thường nói quán Không, quán Vô thường, quán Như huyễn, quán Khổ v.v... song chỉ là những lối đại ngôn bởi vì chúng ra vẫn thấy có, thấy thường, thấy thật, thấy vui... nên mới khổ. Bởi chúng ta chưa xả bỏ hoàn toàn, hành lý còn cả đống, thì làm sao nhẹ nhàng được để bay bổng trong các cõi thiền.
Để ý trong bốn hạng người kể trên, Phật không nhắc đến hạng nào làm lợi mình lợi người. Chỉ một hạng người “không làm khổ mình, không làm khổ người” đã là quá quý, quá hiếm ở trên đời, khoan nói đến bác ái, vị tha gì hết. Thật là thực tế, không màu mè. Chúng ta ưa ngụy trang những tật xấu của mình dưới những danh từ đẹp đẽ, nhưng nhìn hậu quả thì biết ngay nguyên nhân thực sự của nó. “Không làm khổ mình, không chuyên tâm làm khổ mình, cũng không làm khổ người, không chuyên tâm làm khổ người”, sống như vậy nghe qua thật giản dị, nhưng sự thật thì vô cùng khó khăn. Sống giản dị quả là rất khó “Live and let live” (hãy sống, và để cho thiên hạ sống với) là một lý tưởng mà xưa nay chưa ai thực hiện trọn vẹn, ngoại trừ Phật và một số rất ít những bậc Thánh.