TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
Thích Nữ Trí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
Trong
kinh
Kim cương, Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Phật: “Bồ tát
phát tâm vô thượng Bồ đề làm thế nào để an trú tâm
ấy (luôn luôn giữ vững, không thối thất) và làm thế nào
để hàng phục tâm mình”. Nguyên văn bản dịch của ngài
La Thập là: Vân hà ưng trú, vân hà hàng phục kỳ tâm.
Vân
hà
ưng trú: là làm sao an trú, giữ vững cái tâm bồ đề
đã phát. Tâm Bồ đề là tâm mong cầu giác ngộ, tâm dũng
mãnh tinh tiến không ngừng nghỉ trong công việc của Bồ tát
là hóa độ chúng sinh để cuối cùng giác ngộ hoàn toàn,
thành Phật như Phật.
Hàng
phục
kỳ tâm: hàng phục cái tâm ấy. Có khi muốn cho sáng
sủa, ta thêm vào chữ vọng mà nguyên bản không có. Đương
nhiên hàng phục kỳ tâm là chỉ cho cái tâm ngược lại với
tâm Bồ đề. Nhưng ngược với tâm Bồ đề có hai: tâm ích
kỷ của Thanh văn chuyên cầu tự độ, và tâm tham đủ thứ
của Phàm phu còn nặng ngã chấp. Đối tượng chính mà Phật
nhắm đến để giảng dạy Kinh Kim cương là những vị Thanh
văn đã xong phần tự lợi, khởi sự hành hạnh Bồ tát. Điển
hình là Tôn giả Tu Bồ Đề. Ngài là vị A la hán hết sức
tịch tịnh vì không bao giờ móng khởi cái tâm niệm ta đây
là kẻ vắng lặng số một và chính vì vậy Phật mới khen
ngài là người ưa tịch tịnh (vì còn móng tâm động niệm
là chưa thực sự vắng lặng). Ở đoạn 9 (theo kiểu phân
đoạn thành 32 của Chiêu Minh thái tử) khi Phật hỏi Tôn giả
Tu Bồ Đề: “A la hán có thể nghĩ rằng ta đây là A la hán
hay không?”. Thì Tôn giả đã trả lời: “Thưa không, bạch
Thế Tôn, vì nếu A la hán mà nghĩ mình là La hán tức đã
rơi vào quan niệm ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả”. Đây là
bốn kiểu ngã chấp: chấp ngã (ngã tưởng) là chấp tôi;
và đã chấp tôi đương nhiên cũng chấp cái khác với tôi
là anh (nhân tưởng) nói cách khác thấy có tự (mình) thì
cũng thấy có tha (kẻ khác). Cái khác mình thuộc nhiều chủng
loại khác nhau: không những mình khác người trước mặt mình
mà còn khác mọi người, mọi loài vật khác như trâu, bò,
lừa, ngựa, lạc đà... Kiểu chấp thứ ba này là chúng sinh
tưởng. Nói cho dễ hiểu theo văn phạm (không biết đúng không,
vì chưa nghe thấy ai giải thích kiểu này) thì ngã tưởng
như ngôi thứ nhất (tôi), nhân tưởng như ngôi thứ hai (anh)
và chúng sinh tưởng như ngôi thứ ba (chúng nó). Còn thọ giả
tưởng là khái niệm về sinh mạng dài ngắn của cái tôi
ấy từ khi sinh ra cho đến khi chết. Cả bốn tưởng ấy đều
là vọng tưởng, ngã chấp vì đời sống như một dòng sông
tuôn chảy không có bắt đầu hay chấm dứt, đổi mới không
ngừng, vượt ngoài thường còn và đoạn diệt. Cái tôi chỉ
là ảo tưởng do tính tương tục, vì nó biến đổi trong từng
hơi thở nối tiếp nhau từ lúc chào đời cho đến chết.
A la
hán là vị không còn chấp có cái ta, nên không thấy cái ta
ấy là gì cả, là Thánh hay phàm, chân hay tục, là La hán hay
không phải La hán. Vì Tôn giả Tu Bồ Đề không còn móng khởi
một ý nghĩ gì về cái ta đó, nên Phật mới khen Tôn giả
là người ưa hạnh tịch tịnh (nhạo a lan na hạnh giả) .
Khi một vị A la hán như vậy phát tâm Bồ đề, thì phải
cứu giúp chúng sinh cả về vật chất (như đem lại cơm áo
nhà cửa) lẫn tinh thần là giáo hóa để chuyển mê khai ngộ.
Muốn thế A la hán phải sống giữa cuộc đời để chan hòa
ánh sáng giác ngộ của mình (hòa quang) vào trong chốn bụi
bặm (đồng trần). Một thử thách rất lớn cho vị La hán
là khi vị ấy phải nhập cuộc vào giữa bụi đời trở lại
để hóa độ, chẳng khác nào người đã ra khỏi đống bùn
dơ, tắm rửa sạch sẽ rồi mà phải nhảy vào lại trong đó.
Thỉnh thoảng vị ấy không khỏi cảm thấy mỏi mệt trước
những duyên sự đa đoan, chúng sinh đa bệnh, ngoan cố, khó
thương. Và khi tiếng gọi của núi rừng thanh tịnh, của cõi
tâm tịch mịch vô ngần vang lên trong lòng, thì vị ấy gần
như muốn bỏ cuộc, không muốn làm Bồ tát nữa mà ưa quay
về cõi Không, vì sực nhớ ra mình đã là A la hán sao lại
phải dấn thân vào chốn bụi hồng mệt mỏi này? Thế đấy
là vọng tâm của một A la hán tập tễnh hành hạnh Bồ tát.
Ngược lại với vọng tâm của phàm phu là ham sắc thanh hương
vị xúc, vọng tâm của Bồ tát là ham sự tịch mịch của
tâm hồn:
Đoạn
trừ
phiền não trùng tâm bệnh
Xu
hướng
chân như tổng thị tà.
Bởi thế để trả lời câu hỏi của Tôn giả (vân hà hàng phục kỳ tâm, làm sao hàng phục tâm ấy) Phật dạy Tôn giả Tu bồ đề: Hãy độ chúng sinh mà không nghĩ ta là người độ (ngã tưởng), nó là kẻ được độ (nhân tưởng), có rất nhiều loại chúng sinh đã được ta cứu độ, chẳng những người mà bao nhiêu loài tôm cua rùa cá...(chúng sinh tưởng). Và nhất là đừng nghĩ: Ta đã làm cái việc cứu độ chúng sinh lâu quá rồi, (hai ba mươi tháng, năm, đời kiếp...) nay ta muốn nghỉ mệt (thọ giả tưởng). Vì nghĩ như thế thì không thể nào tiếp tục. Lại nữa, Bồ tát thì khi bố thí, đừng có chấp vào vật bố thí thuộc sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Phật
trả lời: “Có bao nhiêu loại chúng sanh trong giới hoặc do
trứng sanh, do hóa sanh, hoặc có sắc, không sắc, có tưởng,
không tưởng v.v.. hãy giúp cho chúng được giải thoát an vui
tuyệt đối. Giúp như vậy vô số vô lượng vô biên chúng
sinh, mà không thấy thật mình giúp và chúng sinh được giúp”.
Câu đáp của Phật bao gồm cả hai phần: an trú tâm Bồ đề
và hàng phục phiền não. Về cách an trú tâm Bồ đề, thì
Phật dạy hãy độ chúng sanh, cứu giúp tất cả mọi loài
không phân biệt. Về phần hàng phục phiền não (hàng phục
kỳ tâm) thì Phật dạy đừng thấy thật có mình ban ơn và
kẻ nhận ơn. Phần thứ nhất do đó tương ưng với “sanh
kỳ tâm” và phần thứ hai với “Vô sở trú” trong câu
“Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm” vậy. Cứu giúp tất cả
là đức “năng nhân”, không chấp có người cho kẻ nhận
là hạnh “tịch mặc”. Nếu bố thí mà còn thấy có mình
là người cho, kẻ khác là người nhận thì dễ sanh phiền
não, mất thanh tịnh, tức là không hàng phục được tâm.
Nhất là khi kiểm kê lại thấy mình “cho rất nhiều nhưng
nhận chẳng bao nhiêu” thì ôi thôi, thật là đau khổ.
Vậy
muốn
an trú tâm Bồ đề , nghĩa là muốn phát sinh và phát
triển tuệ giác như Phật thì phải thực hành Lục độ: Bố
thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ đến chỗ
tột cùng. Đây là nói về khía cạnh tích cực hành động,
tất cả đều có một cách như thật “như thật bất không”.
Đồng thời trong khi hành động tích cực như vậy tâm không
vướng mắc bất cứ cái gì không thấy có cái “tôi” Bố
thí, Trì giới, Nhẫn nhục v.v.. cũng không thấy có đối tượng
là người kia được tôi Bố thí, người kia nhục mạ tôi
v.v.. Đây là nói về khía cạnh tiêu cực: trên phương diện
nhận thức (tri) thì phải thấy không một cách tuyệt đối
hay “như thật không”.
Vì
muốn
cho dễ hiểu, chúng ta phải tạm phân tích như trên,
thành ra có hai mặt tri và hành, thể và dụng, tiêu cực và
tích cực, song kỳ thực cả hai không rời nhau như hơi thở
ra vào, thiếu một tức thì thành người chết. Bởi vậy an
trú tâm bồ đề cũng đồng thời là hàng phục vọng tâm,
hai chuyện trên chỉ là một. Một tri kiến chắc thật, sáng
suốt tự nó đã là hành động: Ví dụ một người đi lạc,
đứng giữa ngã sáu ngã ba, khi nhận ra đúng đường về thì
không còn gọi là lạc nữa mặc dù chưa cất bước đi.
Con
người
ngày nay về phương diện hành động tiến bộ rất
xa, có thể bay lên cung trăng, lặn xuống đáy biển, có thể
thực hiện những chuyện kinh thiên động địa, nhưng tất
cả những hành vi đó không phải phát xuất từ tâm Bồ đề,
mà trọng tâm vẫn là ngã chấp vô minh, cho nên càng được
nhiều thành tích thế giới càng thêm loạn. Một hành động
dù lợi lạc bao nhiêu mà phát sinh từ ngã chấp thì chẳng
những không thể an trú tâm bồ đề mà còn làm tăng trưởng
thêm phiền não (không thể “hàng phục kỳ tâm”), trái lại,
một hành động lợi tha không ngã chấp thì tự nó đã làm
được hai việc an trú tâm Bồ đề và dẹp bỏ phiền não.
Muốn
phá
trừ ngã chấp để phát triển tâm Bồ đề, theo lời
Phật dạy thì phải thấy tất cả đều không một cách tuyệt
đối. Không này bao gồm tất cả các pháp và là thể tánh
của tất cả các pháp: Vi trần, Thế giới, Phật, Chúng sinh,
Bồ đề, Lục độ vạn hạnh... điệp khúc được nhắc lại
nhiều nhất trong kinh này là: “Như lai thuyết thế giới,
tức phi thế giới, thị danh thế giới. Như lai thuyết chúng
sinh tức phi chúng sinh, thị danh chúng sinh” v.v.. Ta hãy phân
tích một câu làm ví dụ:
Như
lai
thuyết vi trần: Đức Như lai kêu là hạt bụi (trung đạo).
Phi
vi
trần: không phải là hạt bụi (không).
Thị
danh
vi trần: Chỉ tạm gọi tên là hạt bụi (giả)
Vì
sao
có mấy chữ “Như lai thuyết” lập đi lập lại? Ta hãy
nhớ đến lời tự thuật của Thế Tôn trong kinh Pháp Hoa.
Sau khi đắc đạo Ngài quán sát thấy căn cơ chúng sanh quá
thấp, mà pháp Ngài chứng thì sâu xa vi diệu, khó hiểu, khó
thấy, khó vào (khó “vô”), dù có nói ra cũng không ai hiểu
được. Do đó Ngài định nhập Niết bàn, không ra giáo hóa.
Nhưng Ngài gẫm lại, chư Phật quá khứ đã dùng các pháp
môn phương tiện để độ sanh. Phương tiện đó trước hết
là ngôn ngữ của chúng sinh. Vì nếu dùng ngôn ngữ của Phật
(như phóng hào quang, im lặng v.v..) thì chỉ có chư Phật hiểu
với nhau mà thôi, không thể truyền đạt đến chúng sinh được
Bởi vậy Đức Thế Tôn phải dùng ngôn ngữ của chúng sinh
để nói với chúng sinh, để cho chúng sinh có thể hiểu thấu.
Mà ngôn ngữ chúng sinh tùy thuộc vào sự thấy biết của
chúng. Cho nên cái gì chúng sinh nói là có, Như Lai cũng nói
có; cái gì chúng sinh nói không, Như Lai cũng nói không. Cái
chúng sinh gọi con trâu, Như Lai cũng gọi con trâu. Cái chúng
sinh gọi con ngựa, Như Lai cũng gọi con ngựa. Đó là theo chúng
sinh mà nói. Vậy, câu: “Như Lai nói hạt bụi” có nghĩa
là tùy thuận theo ngôn ngữ thế gian mà Phật nói hạt bụi.
Đây gọi là trung đạo, vì bao hàm giả và không. Cái mà Phật
gọi hạt bụi dưới mắt Phật thấy không phải là hạt bụi
(phi vi trần) vì nó có thể họp lại thành thế giới. Cái
mà Phật gọi (theo chúng sinh) là thế giới, dưới mắt Phật
thấy thì không phải thế giới vì nó có thể tan nát thành
vi trần. Đây là không quán. Vế thứ 3:
Với cái tâm phàm của chúng ta, bị hạn cuộc bởi vô minh phiền não từ vô lượng kiếp, cọng thêm thói quen tư lương phân biệt... thì dù chúng ta nói có, nói không, nói giả, nói thật gì cũng đều sai, cũng chỉ là giả danh. Cái không của chúng ta không thật là không, cái có của chúng ta cũng không thật là có. Niết bàn mà ta bàn tới cũng hóa thành sinh tử, tuệ giác ta tưởng là thứ thiệt cũng trở thành ngu si. Phiền não tức bồ đề chưa nói ra thì đúng, nói ra thì chỉ thành ba hoa hí luận.
Nhận thức được điều ấy rồi có lẽ chỉ còn một con đường duy nhất cho chúng ta là tin theo lời của đấng Như Thật ngữ, “do lòng tin mà vào”. Làm sao để có được lòng tin đó? Thì kinh đã dạy, hãy trì giới và tu phước. Trì giới và tu phước (Bố thí, Nhẫn nhục...) đến chỗ rốt ráo là không thấy có mình trì giới tu phước, thì chúng ta sẽ có thể tin được lời Phật dạy là vạn pháp đều không. Và khi có được lòng tin ấy, thì những điệp khúc trong kinh Kim Cương “không phải thế giới. . . không phải chúng sinh... không phải nhẫn nhục Ba la mật...” và 86 tiếng KHÔNG, VÔ, BẤT trong bài Bát nhã Tâm kinh ngắn ngủi trở thành khi thì nghe như những nhát búa đánh cho tan tành khối vô minh trong ta, khi lại nghe như lời Mẹ ru ngọt ngào đưa ta vượt ra ngoài ba cõi, để thấy như Lục Tổ:
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai?