Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Bất Tùy Phân Biệt

01 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7653)
04. Bất Tùy Phân Biệt

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Bất Tùy Phân Biệt

Trên phương diện tự do tư tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. "Không ai giống ai". Không ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!

Sách có câu: "Năm người mười ý! ". Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong cùng một vấn đề. Một người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một ngày sau, chính người đó lại có ý kiến thế khác, thay đổi ý kiến của chính mình. Bởi thế cho nên con người đấu tranh, cãi vã nhau để bênh vực ý kiến chủ quan "nhứt định là đúng không sai" của mình, võ mồm võ miệng không xong thì xử dụng võ lực, nếu sống trong tình trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn nếu như sống trong thế giới văn minh hơn, tiến bộ hơn, phát triển hơn ở các nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba tòa quan lớn, quan nhỏ để đòi bồi thường cho bằng được một đô la danh dự hão, sau khi đã tiêu pha gần hết cơ nghiệp thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay trong các chi phí kiện tụng.

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay ghét mai lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con người trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn sóng cao ngất trời vùi dập con người trong sinh tử triền miên. Biển khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, cao ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách có câu: "Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba".

Tuy nhiên, đạo Phật không dừng ở chỗ thế gian thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là khổ đó. Ðạo Phật chỉ dạy cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều vui ít, cuộc đời sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết trước cuộc đời ngày sau sẽ ra sao? Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan, chán nản, yếm thế. Ðạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộgiải thoát, chứ không dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ vào thượng đế tưởng tượng, cầu nguyện van xin.

Ðạo Phật chỉ dạy rất nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác ngộ và giải thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực, một cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là "Bất Tùy Phân Biệt". Pháp môn này được Ðức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử, mà còn dành cho tất cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền não và khổ đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não đó.

* * *

Trước hết, từ ngữ "bất tùy" có nghĩa là: không theo. Còn hai chữ "phân biệt", tùy theo chỗ dùng, được tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường, tính toán, hơn thua, phải quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường kiến, đoạn kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy, "bất tùy phân biệt" có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an lạchạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy, không nên có đầu óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia, bênh vực con mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý nghĩ cố định nào của mình là chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như ý, có thể phát ra nhiều sắc sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn của mỗi người.

Ở đây, xin nói ngay, "bất tùy phân biệt" không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân biệt được thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu. Tức là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào là thực hay giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế nào là rộng lớn hay nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, mới gọi là "bất tùy phân biệt" được.

Chúng ta hiểu biết rõ ràng thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng ta không hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, không thể nào đem lại an lạchạnh phúc, chỉ đưa chúng ta đến phiền não và khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi chịu phản quan tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như vậy hay không? Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt, tức là chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.

Ðối với một sự việc nào đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân biệt già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi đến kết luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không đúng lẽ phải, không đúng sự thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng ta luôn luôn bênh vực, sao cũng cho là đúng! Còn với tất cả những người khác, thế nào cũng cho là sai. Với người đồng đạo hay cùng tổ chức, chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái gì cũng đúng! Nhưng với người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì cũng sai, tất cả đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện", thực ra đã có tự ngàn xưa. Ðó chính là tâm phân biệt của con người vậy.

Mục đích tối thượng của đạo Phật còn chỉ dạy chúng ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Ðó là ngoài những hình tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một điều thật giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều muôn đời giống nhau, một điều khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ xương cùng trắng, lục phủ ngũ tạng không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên khắp thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Ðiều giống nhau, đồng nhau đó là cái gì?

Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:"Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng". Nghĩa là khi xa lìa tất cả mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm phân biệt nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau, đồng nhau, tạm gọi là "con người chân thật". Muốn hiểu được, thấy được, giác ngộ được "con người chân thật" của chính mình, chúng ta phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê. Cũng như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có thể soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước. Cũng như không có những đám mây tham sân si che lấp, thì mặt trăng chân thật mới hiển lộ vậy.

Thế nào là "con người chân thật"? Ðó là con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã, đủ năng lực giải thoát mọi phiền não và khổ đau. Ðó là con người không tham lam, không sân hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức. Ðó là con người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Ðó không phải là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay. Ðó cũng không phải là cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ của chúng ta hiện nay. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được với "con người chân thật" thì khi đó mới thực sự có được an lạchạnh phúc của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi. "Con người chân thật" chính là con người không có tâm phân biệt. Nói cách khác, con người có tâm "bất tùy phân biệt" chính là "con người chân thật" vậy.

Tâm phân biệt, cố chấp, thị phi, phải quấy, đúng sai, hơn thua, thường đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì trên thế gian này có điều gì đúng hay sai tuyệt đối đâu. Chẳng hạn như chữ hiếu đối với dân tộc này là nuôi dưỡng cha mẹ già yếu cho đến lúc mãn phần. Còn chữ hiếu đối với dân tộc khác là khi thấy cha mẹ già thì họ cho leo lên cây, rồi con cháu xúm lại rung gốc cây. Nếu cha mẹ còn khỏe mạnh leo trở xuống được, con cháu vui mừng tiếp tục nuôi dưỡng. Bởi lẽ họ quan niệm rằng cha mẹ còn khỏe mạnh thì mới vui sống và yêu đời.

Cũng vậy, hiện nay vấn đề phá thainhân đạo hay vô nhân đạo? Vấn đề bác sĩ có quyền giúp bệnh nhân nan y, hết thuốc chữa, đau đớn thập phần, được chết theo ý muốn của họ hay không? Ðâu là câu trả lời đúng nhất, hợp tình, hợp lý, hợp luật, hợp lệ nhất? Trong nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ đúng một phần thôi, hãy lắng nghe ý kiến của người khác, như vậy mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng chân lý

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn". Nghĩa là chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có sự hiểu biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặt tri kiến của mình là đúng, là độc nhứt vô nhị, sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền não. Nếu không cố chấp như vậy, nhứt định chúng ta sống trong cảnh giới niết bàn cực lạc không nghi. Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu Pháp Tứ Y, Ðức Phật dạy trong Kinh A Hàm, gồm có: Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.

1) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y pháp bất y nhân". Nghĩa là chúng ta nên xét theo sự việc chứ không xét theo con người. Thí dụ như một người ăn hiền ở lành đúng tiêu chuẩn, thì phải được lên thiên đàng, không phân biệt, không chấp cứ người đó là có đạo nào hay ngoại đạo. Chứ lên thiên đàng mà cũng phe đảng như vậy hay sao? Cũng vậy, Niết bàn không dành riêng cho giới tu sĩ. Ðó chính là cảnh giới của tất cả những ai thực hành đúng theo lời Ðức Phật đã dạy, không phân biệtPhật Tử, hay không phải là Phật Tử.

Tâm phân biệt người này thế này, người kia thế khác cũng dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Con người phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo. Nếu là tu sĩ thì lên Niết bàn, nếu là người có đạo thì lên thiên đàng. Còn số đông đại chúng muôn vạn triệu triệu người, thì có chỗ dành sẵn dưới địa ngục! Hởi ơi, đâu là lòng từ bi và bác ái trong những con người có tâm phân biệt như thế! Chúng ta thường hay chấp chặt, tin ngay lập tức những gì giáo chủ dạy, những gì người tự nhận đại diện thượng đế nói, mà không chịu xét xem những lời dạy đó, những lời nói đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lý hay không, cứ tin bừa bãi, tin một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, gọi đó là đức tin! Như vậy, chúng ta đã "y nhân", dù là thượng đế, chứ không "y pháp", dù là chân lý. Bởi vậy, cho nên ở Âu Mỹ hiện nay, những trung tâm hướng dẫn thiền định thu hút rất nhiều người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo gì cả. Ở những nơi đó, con người tư duy chân lý, quán sát lẽ thực, thực hành Chánh Pháp. Người nào thực tập đúng pháp môn thiền định thì đạt được cảnh giới an lạchạnh phúc đó, một cách bất tùy phân biệt! Như vậy chính là "y pháp bất y nhân".

2) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là đừng chấp những lời nói, ngôn ngữ, bài viết không có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ không phiền não và khổ đau. Thí dụ như có người hỏi chúng ta rằng: Sao dạo này anh chị mất uy tín quá vậy? Câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả, chỉ nhằm mục đích chọc tức chúng ta mà thôi. Chúng ta nghe rồi thì thôi, hoặc có thể lờ đi như không nghe thấy, bởi vì chúng ta hiểu tường tận thế nào là "vô ngã", không thấy có "bản ngã", nên không thu nhận câu đó vào trong tâm trí. Như vậy chúng ta sẽ không thấy phiền não và khổ đau. Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôiuy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như có người mắng chúng ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Câu nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc là, có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng cãi chánh, quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí, nếu có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện, mà chúng ta chỉ "y nghĩa bất y ngữ", thì họ làm gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ đau cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!

Người ta đưa lửa tới đốt, nếu chúng ta không đáp ứng, không đưa thân đưa tâm ra lãnh đủ, thì họ chỉ đốt "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy gì về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, biện bạch, cũng giống như chúng ta thổi hơi vào lửa đỏ, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây cảm hứng, tạo duyên cớ cho họ làm tới mà thôi. Lúc Ðức Phật còn tại thế, khi Ngài bị người ngoại đạo theo quấy rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như không có chuyện gì xảy ra cả. Người đó thấy Ðức Phật cứ tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Ðàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Ðức Phật từ tốn nói bài kệ như sau: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành" .

Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói tim, khỏi uống thuốc chẳng cần dầu cù là, nghĩa là chúng ta không phiền não và khổ đau. Chẳng hạn như khi chúng ta đi dự tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà biếu tặng, nếu chúng ta không nhận thì chủ nhà phải giữ món quà đó lại. Cũng vậy, người đời thường tặng chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận thì sẽ được ăn ngon ngủ yên.

Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Ðức Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa". Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng, chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc trăn trở, nằm đếm một hai, cho đến trăm ngàn! Khỏe re! Như vậy chính là "y nghĩa bất y ngữ".

3) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y trí bất y thức". Nghĩa là chúng ta nên xét sự việc theo trí tuệ bát nhã, chứ không xét theo tình thức, tình cảm thiên lệch của con người. Tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng nói dễ nghe hay khó nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở, bài văn khen tặng hết lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì sắc tướng đẹp hay xấu thực sự không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy người đối diện, tùy cảm tình của con người mà thôi. Món ăn ngon hay dở cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang đói bụng hay không mà thôi. Khi đói lòng, một củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no đủ quá rồi thì sơn hào hải vị cũng chẳng ngon bằng một lọ tương! Khen tặng hay phê phán cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang nịnh bợ, tâng bốc để thủ lợi, hay đang quạu quọ vì không còn hưởng lợi, như lời giao kết trước đây nữa mà thôi.

Người nào hiểu được như vậy, thực tập đúng pháp môn thiền định, không để cho những tình thức phân biệt dẫn dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền não và khổ đau, người đó đạt được "trí tuệ bát nhã". Nói cách khác, trí tuệ bát nhãtrí tuệ phát sanh do tâm "bất tùy phân biệt", do công phu trì giới, tu tập thiền định mà hiện ra. Trí tuệ bát nhã khác với trí tuệ của thế gian do công phu học tập trong học đường mà đạt được, thể hiện qua các bằng cấp cao thấp. Trí tuệ bát nhãtrí tuệ sẵn có nơi tất cả mọi con người, không phân biệt già trẻ, lớn bé, nghèo giàu, nam nữ, xuất xứ, học thức, thân sơ, thương ghét, dân tộc hay tôn giáo gì cả. Do sự lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê, chúng ta sẽ đạt được "trí tuệ bát nhã". Như vậy chính là "y trí bất y thức".

4) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa". Nghĩa là chúng ta chỉ nên căn cứ theo những sự việc có ý nghĩa, những điều nào rõ ràng, minh bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ hồ, những chuyện không có căn cứ vào đâu cả. Thí dụ như chúng ta thường nghe một câu chuyện truyền miệng, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy. Hoặc những tin đồn dĩa bay xuất hiện, thần thánh hiện ra nơi này nơi khác, có người thi triển thần thông phép lạ chữa hết bệnh nan y, không thể kiểm chứng được, chúng ta không cần quan tâm. Vã lại, những câu chuyện như vậy không có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh, chỉ làm loạn tâm chúng ta mà thôi.

Ðối với những chuyện thị phi trên thế gian này, chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu sự thực, đã vội vàng kết luận, nhứt định không đúng vậy. Ðối với những sách gọi là kinh Phật, chúng ta cũng cần nên dè dặt. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy 37 phẩm trợ đạo, để giúp con người tiến bước trên con đường giác ngộgiải thoát. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy lý nhân quả, lý vô thường, vô ngã, chơn không diệu hữu, để giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau. Những cuốn sách có nội dung: cúng sao giải hạn, cầu gì được nấy, bói toán mê tín, tin tưởng thánh thần, cầu nguyện van xin, tình duyên gia đạo, coi phong thủy, xem nhà cửa, chọn đất đai, đều không phải là kinh điển ghi lời Ðức Phật dạy. Vấn đề này còn có phần tế nhị, bởi vì Ðức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh, cho nên kinh điển có quyền có thực, có hiển có mật. Kinh Phật vô lượng nghĩa, không có cao thấp, tùy theo công phu tu học đến đâu, con người hiểu kinh Phật đến đó.

* * *

Tóm lại, để kết thúc bài này, chúng tôi ghi lại hai câu sau đây của Thiền sư Hoàng Bá:

Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Nghĩa là:"Nếu không một phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm". Sau khi trải qua một mùa đông lạnh thấu xương, hoa mai mới hội đủ thời tiết nhân duyên để nở rộ và tỏa mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, chúng ta cần phải trải qua những thử thách cam go của cuộc đời, mới có được bài học nhẫn nhục, nhẫn mà không thấy nhục. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành". Hiểu đạo rồi, chúng ta có thể nói: "Một sự nhịn muôn vạn sự lành". Con người chỉ học được và nếm được chút hương vị từ bi sau khi trải qua những giai đoạn khổ đau của cuộc đời. Khi nào bắt đầu thấy được giữa tuyết trắng và bùn nhơ không khác, không có cái gì xấu, không có cái gì đẹp, lúc đó con người bắt đầu biết nhìn sự vật với tâm bất tùy phân biệt, cũng là lúc con người hiểu được và hành được tâm đại bi. Người có tâm đại bi tức là không có tâm phân biệt, không có tả không có hữu, không có bạn không có thù, không có thân không có sơ, không có thị không có phi, không có thương không có ghét. Tuy nhiên tâm đại bi không phải là vô tri, mà chính là sức mạnh mầu nhiệm đem lại an lạchạnh phúc cho cuộc đời.

Hiểu được rõ ràng thế nào là "vô ngã", thế nào là "con người chân thật", chúng ta mới tìm được an lạchạnh phúc trên cõi đời này. Hơn thế nữa, chúng ta cần phải trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, mới nhận thấy được những lời dạy của đức Phật không dành riêng cho bất cứ ai sống trên đời này. Không phân biệt tôn giáo, không phân biệt sắc tộc, bất cứ người nào thực tâm lắng nghe, lắng lòng suy nghĩ, đem những lời dạy quí báu đó áp dụng trong cuộc sống. Nhứt định người đó sẽ sống một cuộc đời an lạchạnh phúc với "con người chân thật" của chính mình vậy. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10368)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
(Xem: 9485)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9196)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31103)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20642)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 22970)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17561)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11539)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21252)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8676)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22016)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13236)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38315)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13260)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24109)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 14875)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24404)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10087)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17517)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22534)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22522)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7424)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 13981)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 26924)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26709)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19724)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20677)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21218)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13146)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13283)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29697)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13825)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13849)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32295)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 23831)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29642)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31370)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34086)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18349)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19375)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32686)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18625)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30691)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16049)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26647)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32476)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39211)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40312)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19198)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19209)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant