Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 13: Quả báo đối với hôn nhân

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4786)
Chương 13: Quả báo đối với hôn nhân

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 13: QUẢ BÁO ĐỐI VỚI HÔN NHÂN

Vấn đề hôn nhân là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ mãn. Nhưng nếu thất bại thì sẽ là một nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân đem đến cho đời người những cực điểm về vinh nhục, sướng khổ, và giữa hai cực điểm đó, có vô số những trạng thái trung gian, hoặc vừa khổ vừa sướng, hoặc vừa vinh vừa nhục.

Về phương diện pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng sống chung dài hạn giữa hai người khác phái. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối hợp giữa nam và nữ tính, do bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lý và tình cảm.

Hội Thánh Gia Tô xem hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm lý học xem hôn nhân như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Những kẻ nhạo đời xem hôn nhân như một cái bẫy mà chỉ những người ngu ngốc mới chui vào. Nhưng theo một định nghĩa rộng hơn căn cứ vào thuyết luân hồi thì những quan điểm kể trên đều chỉ đúng có một phần. Một nhà tâm lý học định nghĩa rằng hôn nhân là một “sự phối hợp của hai cá nhân khiếm khuyết và bất toàn” cùng góp sức với nhau để xây dựng nền hạnh phúc chung cho cả hai người. Định nghĩa này sẽ trở nên gần gũi hơn với quan điểm của nền minh triết cổ truyền nếu ta hiểu rằng việc xây dựng nền hạnh phúc cũng chính là cố gắng để tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Theo quan điểm rộng rãi này thì hôn nhân là một cơ hội để hai tâm hồn bất toàn bổ khuyết và giúp đỡ cho nhau và cùng nhau thanh toán những món nợ nhân quả, rèn luyện những đức tính trên con đường vươn đến sự hoàn thiện về mặt tâm linh.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã nhiều lần xác nhận rằng không có một mối liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt để. Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không, vì đó bao giờ cũng là sự nối tiếp của một câu chuyện dài đã bắt đầu từ quá khứ.

Các cuộc soi kiếp cho biết rằng, bằng cách này hay cách khác, những người kết hôn với nhau đều đã có nhân duyên trong các kiếp trước. Đó là một điều lý thú!

Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce xem vấn đề hôn nhân như một điều tự nhiên của con người, và ông thường nói:

– À! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với mọi con người sống trên thế gian, điều đó luôn là một sinh hoạt tự nhiên.

Có người hỏi:

– Tôi có nên kết hôn trong lúc này hay không?

Ông Cayce đáp:

– Lúc nào cũng được cả, nếu anh nghĩ rằng mình đã chọn được người bạn trăm năm thích hợp. Điều đó tùy thuộc vào mục đích anh theo đuổi khi anh muốn kết hôn với người ấy.

Một gia đình ấm cúng, đó là hình ảnh của trạng thái hòa hợp hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce tuyên bố như sau với một người được ông soi kiếp:

– Sự thành công của anh phải là cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành công nào lớn hơn nữa.

Ít người được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình. Nhưng hạnh phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất, và người nào xem thường điều ấy sẽ tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau. Vì gia đìnhbiểu tượng gần nhất đối với nguyện vọng sống hạnh phúc của một người và đó cũng thường là nền tảng tất yếu cho một đời sống hạnh phúc giữa thế gian. Bởi vậy, có thể nói rằng một gia đình hạnh phúc chính là cõi thiên đàng ở giữa thế gian này!

gia đình là nơi người ta cùng theo đuổi một mục đích chung với sự gắn kết của một mối tình thân ái, nên nó cũng là nơi thể hiện nhiều nhất những mối tương quan tốt đẹp giữa con người với con người. Mục đích của gia đình là sự sáng tạo khi mỗi thành viên trong đó đều hợp nhất với nhau trong một lẽ sống và một lý tưởng chung. Khi ấy, gia đình sẽ là cội nguồn tạo ra những đời sống hạnh phúc cũng như mang lại niềm hạnh phúc vô biên cho mỗi một thành viên của nó.

Những quan niệm trên đây không phải mới lạ gì. Tuy nhiên, điều khác biệt là những cuộc soi kiếp trình bày những quan điểm trên theo một cách vừa tự do vừa tân tiến đối với vai trò của người phụ nữ. Điều lý thú ở đây là vấn đề nam nữ bình quyền và quyền tự do của phụ nữ trong việc tự quyết định cuộc đời mình được xem như một vấn đề đương nhiên.

Ý niệm về sự đương nhiên này được biểu hiện rõ hơn trong những cuộc soi kiếp về các trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều, đó là nghề nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan niệm độc tài chuyên chế và xem vai trò của phụ nữ chỉ là ở trong gia đình, giới hạn trong việc chăm sóc cho chồng con.

Các cuộc khám bệnh thường đưa ra những phương pháp điều trị không theo một đường lối duy nhất. Tương tự như vậy, không hề có một phép xử thế nhất định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân.

Những nguyên tắc tâm lýđạo đức bao giờ cũng dựa trên một nền tảng như nhau, nhưng sự biểu đạt cụ thể thành hành động luôn khác biệt nhau tùy theo từng trường hợp. Đối với một số phụ nữ, ông Cayce khuyên họ nên lập gia đình; nhưng đối với một số khác ông lại khuyên họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên lo cho sự nghiệp trước, rồi sẽ lo việc lập gia đình sau. Với một số người khác thì ông khuyên họ nên chú trọng đồng thời cả hai việc lập gia đìnhtheo đuổi nghề nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên họ hãy chọn một trong hai điều; vì họ không thể cùng lúc thành công trong cả hai lãnh vực.

Một thiếu nữ mười tám tuổi có tánh e lệ, rụt rè và nhiều bất mãn về cuộc đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc từ thiện như săn sóc, giúp đỡ các trẻ em bất hạnh. Cuộc soi kiếp cho biết:

– Nếu người này tìm cách có được hạnh phúc theo con đường hôn nhân thì cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy chồng cô đã có làm những công tác trợ giúp xã hộisăn sóc trẻ em bất hạnh.

Cuộc soi kiếp nói thêm rằng, cô cũng có thể giúp việc săn sóc các em gái nhỏ trong trại mồ côi hay một tổ chức từ thiện tương tự. Một nhà tâm lý học sẽ nhìn nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh, theo quan điểm thuần túy tâm lý. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là một phương tiện rất tốt để cởi mở và phát triển sớm thiên chức làm mẹ. Nhờ đó, cô gái này sẽ có được sự tự tin trước khi lập gia đình. Trong trường hợp của cô này, nếu không có đức tính ấy thì sẽ không có cơ hội xây dựng được hạnh phúc gia đình. Hôn nhân có thể sẽ hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn trăm năm không thích hợp, và sự lúng túng trong việc chăm sóc con cái vào buổi đầu có thể là nguyên nhân làm sụp đổ tất cả.

Mặt khác, cho dù cô có tìm được một người chồng thích hợp, sự thất bại vẫn có thể xảy đến nếu một trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần thiết để đương đầu với những vấn đề do hoàn cảnh đưa đến và những căng thẳng mà cuộc sống hôn nhân tạo nên. Vì thế, trong trường hợp này thì phương pháp tốt nhất là hãy làm quen với một công tác xã hộitheo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.

Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có nhiều năng lực được khuyên là nên lập gia đình đồng thời với việc theo đuổi một nghề nghiệp, nhưng chỉ nên kết hôn với một người hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi. Người thiếu nữ này những kiếp trước đã từng làm nhiều công việc khác nhau và có năng khiếu đặc biệt về các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, dệt vải cũng như năng khiếu về âm nhạc và khiêu vũ .v.v... Với một năng khiếu đa dạng và phong phú như thế, cô có đủ điều kiện cần thiết để trở thành một nhà lãnh đạo. Sau khi đã nêu rõ các điểm nêu trên, ông Cayce cho biết thêm:

– Tôi thấy rằng người này nên lập gia đình đồng thời với việc theo đuổi nghề nghiệp yêu thích, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải thích hợp cả với người chồng mà cô chọn lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là một người hoàn toàn thích hợp để có thể góp phần xây dựng vào công việc mà cô theo đuổi thì sẽ có những bất đồng ý kiến và những sự thất vọng chua cay làm tổn thương sâu sắc tâm hồn cô.

Trái lại, dưới đây là một trường hợp lý thú khác của một nữ diễn viên trẻ đẹp và tài năng. Cô này yêu một người và muốn biết xem có thể tiếp tục làm nghề diễn viên sau khi kết hôn hay không?

Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rất rõ ràng rằng:

– Không thể được! Người này có những đức tính cần thiết để thành công trên sân khấu hoặc trong gia đình; nhưng cô không thể thành công trong cả hai lãnh vực. Vậy cô hãy tự mình chọn lựa!

Xem xét tỉ mỉ những cuộc soi kiếp kể trên, ta thấy rằng những lời khuyên luôn nhằm mục đích dìu dắt đương sự hướng về việc phát triển sự hoàn thiện tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những lý do ích kỷ như là tiền bạc, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền lực, danh vọng cá nhân .v.v... thì ông Cayce luôn thấy rõ được tâm địa ấy và sẽ khuyên cô ta nên hướng về việc lập gia đình. Lời khuyên này được đưa ra không phải vì lý do tình cảm hay theo tục lệ truyền thống về tánh cách thiêng liêng của gia đìnhvai trò của người phụ nữ. Nó được dựa trên quan niệm rằng những động cơ thúc đẩymục đích hướng đến là những tiêu chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người; rằng một hành vi ích kỷ bao giờ cũng bị đánh giá thấp hơn một hành động vị tha, và những trách nhiệm mà người ta phải gánh vác trong sự kết hôn và lập gia đình dễ đưa con người đến hành động vị tha hơn là những thú vui mà người ta tìm kiếm để thụ hưởng riêng trong một vài nghề nghiệp.

Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có tài năng, nên tạo lập gia đình và tập trung vào việc chăm sóc, nuôi dạy con cái; vì đó là khuôn thước tốt nhất để giúp họ khai mở những đức tánh tâm linh còn thiếu sót, để kiềm chế bớt lòng ích kỷ, dù họ có ý thức được việc đó hay không, trong khi theo đuổi con đường sự nghiệp.

Mặt khác, một vài phụ nữtài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của mình để phụng sự nhân loại. Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì một tổ ấm, một người chồng, một gia đình có thể là những chướng ngại cho sự phát triển tối đa những khả năng của họ. Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên họ hãy trì hoãn việc lập gia đình một thời gian hoặc nên phối hợp hôn nhân với sự nghiệp cùng một lúc.

Mục đích cao nhất đối với những người độc thân cũng như có gia đình, đều là sự phát triển hoàn thiện tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà đều có quyền chọn lựa để xây dựng một gia đình thích hợp nhất, có thể giúp họ theo đuổi sự phát triển hoàn thiện tâm linh.

Ông Cayce xem quyền tự do chọn lựa và xây dựng cuộc đời của mỗi người không chỉ là một quyền hạn trên địa hạt xã hội mà còn là một quyền tất yếu về mặt tâm linh. Nói theo danh từ triết học thì đó gọi là quyền tự do ý chí (libre arbitre), đã từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi nổi trải qua nhiều thế kỷ.

Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết luân hồi là nó nhấn mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí. Một điều lầm lạc rất thông thường của những người tin tưởngthuyết luân hồinhân quả là họ cho rằng số mạng con người đã được định sẵn từ trước. Một sự tin tưởng sai lầm như thế có những hậu quả rất tai hại về mặt tâm lýđạo đức tâm linh, vì nó làm cho tinh thần con người trở nên yếu đuối, thụ động và làm tê liệt ý chí tiến thủ của con người. Khi một người hiểu về luật nhân quả theo cách đó, họ sẽ có một thái độ buông xuôi, thụ động vì cho rằng mọi việc đều đã được định sẵn và con người không thể thay đổi được gì. Thật ra, những người như thế được gọi là tin theo thuyết tiền định, hoàn toàn không liên quan gì đến thuyết nhân quả.

Thuyết nhân quả chỉ ra rằng mỗi một “nhân” mà chúng ta tạo ra bằng hành vi hay tư tưởng đều chắc chắn phải tạo thành “quả” trong tương lai khi kết hợp đủ các điều kiện hay các “duyên”. Như vậy, khi đã tạo nhân thì chắc chắn phải nhận quả, nhưng điều này không có nghĩa là mọi việc đều đã được định sẵn bởi các nhân trong quá khứ. Quá trình tương tác giữa các nhân, quả và duyên là một quá trình liên tụcphức tạp. Một nhân của quá khứ tạo thành một quả trong tương lai, nhưng chính cái nhân đó cũng có thể là một phần quả của một nhân khác từ trong quá khứ lâu xa hơn nữa. Hơn nữa, kết quả của một sự việc này cũng có thể làm duyên cho sự hình thành kết quả của một sự việc khác. Và trong bất cứ thời điểm nào, sự chọn lựa bằng tự do ý chí của mỗi cá nhân đều góp phần quyết định vào sự hình thành các sự việc. Đây là lý do giải thích sự đề cao vai trò quyết định của mỗi cá nhân trong việc hình thành chuỗi nhân quả phức tạp trong cuộc đời. Sự thật là phần nhiều những chi tiết của cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chính chúng ta định đoạt bằng những tư tưởnghành vi ngay trong giây phút hiện tại.

Thật ra, tất cả những sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như hôn nhân đến việc nhỏ mọn như ăn một cây kem chẳng hạn, đều do chính chúng ta định đoạt. Những khó khăn trắc trở đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều là kết quả của những lỗi lầmchúng ta đã gây ra trong quá khứ do sự định đoạt của chính mình, nhưng ngay trong hiện tại ta vẫn luôn có cơ hội để tích cực sửa chữa sai lầm và nhận được những kết quả tốt đẹp hơn. Những quả báo xấu dường như đến với chúng ta một cách tình cờ, bởi vì ta đã quên đi những hành động của ta trong quá khứ nên không thể thấy được sự liên quan giữa những hành động đã qua với cuộc đời chúng ta trong hiện tại. Tuy nhiên, việc quả báo xấu ấy xảy ra như thế nào, với mức độ nào thì phần lớn lại được quyết định do chính những hành vitư tưởng ngay trong hiện tại của chúng ta.

Như thế, nếu chúng ta hiểu đúng về luật nhân quả thì sự mâu thuẫn giữa hai vấn đề tự do ý chíđịnh mệnh xem như đã được giải quyết. Cái gọi là “định mệnh” thật ra chính là sự chi phối, là kết quả những hành vi trong quá khứ của chính chúng ta, và ta không có sự lựa chọn nào khác hơn là đón nhận nó. Cũng như một người đã làm xong mọi thủ tục mua hàng và bây giờ hàng hóa đang trên đường được chuyển đến. Anh ta không có lựa chọn nào khác hơn là nhận lấy số hàng hóa mà chính mình đã đặt mua. Mặc dù vậy, vì mỗi cá nhân đều có quyền tự do ý chí nên ta hoàn toàn có thể chọn lựa cách thức đón nhận những quả báo xảy đến cho ta; và quả báo ấy xảy ra như thế nào cũng có một phần do những hành vitư tưởng trong hiện tại của chúng ta quyết định. Tương tự như người đặt mua hàng kia tuy không thể từ chối việc nhận hàng, nhưng có thể chọn lựa cách thức giao nhận hàng hoặc sử dụng số hàng đó như thế nào.

Nói một cách khác, chúng ta được hoàn toàn tự do trong sự quyết định mọi hành vi, tư tưởng của mình, và mỗi hành vi, tư tưởng của ta đều góp phần quyết định sự việc sẽ xảy ra.

Như thế, tuy luật nhân quả quyết định những sự kiện xảy ra trong đời người, nhưng trong từng giây phút hiện tại chúng ta vẫn luôn được hoàn toàn tự do chọn lựa hành vi tư tưởng của mình để góp phần làm thay đổi mỗi sự kiện theo hướng tốt hơn hoặc xấu hơn.

Vấn đề tự do ý chí này luôn gợi sự chú ý của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân và nhất là những trường hợp có thắc mắc về người bạn trăm năm sau này. Các cuộc soi kiếp luôn cho biết rằng mọi cuộc hôn nhân đều do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên, có nghĩa là những người đến với nhau trong hôn nhân đều là những người quen nhau từ kiếp trước và ngày nay gặp lại nhau để cùng thanh toán những mối duyên nghiệp nợ nần giữa hai người.

Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn đề khác, mỗi người luôn vẫn có quyền tự do ý chítự do chọn lựa. Dầu cho giữa hai người có một sợi dây duyên nghiệp tạo ra một sự hấp dẫn mãnh liệt, thì sự kết hợp của họ trong hiện tại vẫn không phải là điều không thể thay đổi. Điều đó tùy thuộc vào sự chọn lựa và quyết định của cả hai người. Hơn nữa, không phải bao giờ điều đó cũng là cần thiết hoặc đáng khuyến khích.

Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn liên quan đến nhận xét vừa nêu trên:

Hỏi: Tôi có nên kết hôn với chàng trai đang tỏ tình với tôi lúc này chăng?

Đáp: Hai người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô không nên kết hôn với anh ta.

Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F. S. có thể giúp cho sự phát triển chung của chúng tôi chăng?

Đáp: Có thể được, nhưng tôi thấy có nhiều người khác mà cô có thể kết hợp để cùng nhau phát triển một cách hài hòa và tốt đẹp hơn nữa. Đó là những người mà kiếp trước cô đã có tạo nghiệp duyên vào thời kỳ văn minh cổ Ai Cập. Dầu sao, sự chọn lựa là ở nơi cô. Thật ra, cô có một món nợ nghiệp duyên với F.S. cần phải trả dứt, nhưng việc kết hôn với anh ta là giải pháp kém nhất!

Khi ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dù là xét thấy giữa hai người có duyên nghiệp với nhau, ta có thể hiểu điều đó bằng nhiều cách. Trước hết, có thể rằng ông nhận thấy giữa những người ấy có những vấn đề khác còn quan trọng hơn sự liên hệ giữa vợ chồng. Hoặc cũng có thể ông thấy rằng một trong hai người, hoặc cả hai, chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống hôn nhân.

Những cuộc soi kiếp thường không nói rõ lý do vì sao trong mỗi trường hợp đương sự nên hay không nên đi đến hôn nhân. Dẫu cho trong những trường hợphôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông Cayce cũng để cho đương sự tự quyết định lấy. Ông ít khi nào đưa ra một quyết định thay cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó thể hiện rõ ràng trong trường hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông về việc họ có nên kết hôn với nhau hay chăng?

Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng họ đã trải qua hai lần kinh nghiệm kết hôn với nhau, một lần ở Ba Tư và một lần nữa ở Ai Cập. Đó là lý do của sự hấp dẫn mãnh liệt hiện nay thu hút hai người lại đến với nhau.

Về cuộc hôn nhân của họ, ông Cayce không nói một cách dứt khoát mà chỉ cho biết rằng:

– Nếu giữa hai người có một sự hòa hợp về lý tưởngmục đích thì hôn nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp.

Người thiếu nữ liền hỏi ông câu này:

– Mỗi người trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà có được hạnh phúc hơn là trường hợp chúng tôi kết hôn với nhau hay chăng?

Ông Cayce đáp:

– Nếu cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh sách của hai mươi lăm hay ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân hay không, thì đó là vấn đề mà cô hãy tự quyết định lấy!

Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một cách dứt khoát như sau:

Hỏi: Tôi có nên lập gia đình với người đàn ông đã đính hôn với tôi chăng?

Đáp: Không nên!

Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để cho đương sự được hoàn toàn tự do chọn lựa. Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa ra những tiêu chuẩn để dẫn dắt đương sự trong sự chọn lựa đó. Một người đàn ông hỏi:

– Cô M. L. có thể là người vợ hiền và thích hợp với tôi chăng?

Ông Cayce đáp:

– Điều đó phải tự ông quyết định chứ không phải tôi! Ngoài sự thích hợp với nhau về phần trí não tri thứcthể chất, còn phải xem giữa hai người có sự hòa hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng chung một lý tưởng, một mục đích hay không? Nếu không thì phải cẩn thận đấy!

Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng, trong bốn người đàn ông muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết:

– Điều đó tùy nơi lý tưởng mà cô đang theo đuổi. Mỗi người trong số bốn người đó đều đã có liên hệ với cô trong quá khứ, có người thì giúp đỡ nhưng có người lại làm chướng ngại cho cô. Nếu tôi khuyên cô nên tránh người nọ hoặc nên chọn người kia thì sẽ đặt cô vào một vị trí sai lầm, và cũng đặt cả những người kia vào vị trí sai lầm. Chính cô phải tự chọn lựa, và tiêu chuẩn chọn lựa phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hãy nhớ rằng, tất cả mọi người đều có quyền tự do chọn lựa.

Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể suy diễn ra nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm của mình. Người ta có thể nói rằng phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể xác. Theo quan điểm đưa ra trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce thì sự hấp dẫn của thể xác phải đi đôi với sự hấp dẫn về phần tri thức và sự hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn nhânhạnh phúc phải căn cứ trên nền tảng bao gồm đủ ba khía cạnh đó, cũng như ba cái chân vạc vững chắc. Nếu một trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót thì cuộc hôn nhân ấy sẽ có nguy cơ không đứng vững!

Lý tưởng của một người phải tương xứng, hoặc ít nhất cũng là thuận chiều với lý tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện nói trên; nếu không thì nguy cơ tan vỡ và thất bại chua cay là khó tránh khỏi.

Việc kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về những điều quan trọng kể trên tức là tự chuốc lấy tai họa và mọi sự khó khăn trắc trở. Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mãnh liệt đối với một người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng. Cẩn thận tức là phải nhìn thấy xa để khỏi lầm tưởng rằng một sự hấp dẫn của thể chấtdục tình sẽ trở nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và không vô tình châm lửa vào cái ngòi thuốc súng của một tình trạng quả báo sắp nổ bùng!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28196)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6690)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8788)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15390)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8257)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16735)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26982)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15657)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22543)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19476)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18352)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16207)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12887)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37865)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10716)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10032)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10392)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11042)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15234)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10844)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19698)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11710)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10784)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11248)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10564)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10894)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11405)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11065)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17772)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15239)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15714)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11004)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12117)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11046)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21852)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9182)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10104)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant