Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 23: Những khía cạnh của luật nhân quả

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4928)
Chương 23: Những khía cạnh của luật nhân quả

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 23: NHỮNG KHÍA CẠNH CỦA LUẬT NHÂN QUẢ

Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù do kiếp trước khi sống trong một bộ lạc ở Ba Tư đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những tù binh để hành tội.

Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao người này phải chịu trách nhiệm về một việc làm tuân theo những tục lệ địa phương thời đó? Xét cho cùng, ông ta không thể làm khác hơn những gì xã hội đương thời đòi hỏi, vậy tại sao ông phải chịu quả báo trong khi ông chỉ thừa hành một công việc mà xã hội bắt buộc ông phải làm?

Chẳng hạn như vào thời nước Pháp còn dùng những quân đao phủ để thi hành các bản án tử hình. Người đao phủ ấy chỉ là một nhân viên thừa hành và không thể làm gì khác hơn được. Có thể nào người ấy phải chịu quả báo khi thực hiện một công việc do luật pháp đã phán định hay chăng? Nhưng nếu là không, thì tại sao người của bộ lạc nước Ba Tư thời cổ khi lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh lại phải chịu quả báo?

Trước đây chúng ta đã thấy rằng không chỉ riêng hành động gây nên nghiệp quả, mà chính những tư tưởng làm động lực thúc đẩy trong lòng người, làm cơ sở biểu lộ ra hành động ấy mới là yếu tố quan trọng hơn trong việc tạo nên nghiệp quả.

Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay cộng nghiệp. Nếu mọi người trong một xã hội cùng tán thành và thực hiện những tập quán xấu xa, độc ác, gây đau khổ cho nhiều người, thì tất cả những người thuộc về cộng đồng xã hội đó đều phải chia sẻ trách nhiệm và nhận lãnh quả báo xấu.

Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác là những điều xấu ác, thì tất cả những thành viên của xã hội tàn bạo đó đều có thể xem là phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng là gián tiếp.

Tội ác đó sẽ càng tăng thêm nếu một người biết rằng những tập tục đó là độc ác mà vẫn tán thành và không làm gì để trừ bỏ đi. Và nếu họ trực tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy thì tội ác sẽ càng tăng hơn thêm.

Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt người khác chỉ vì họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người hành hình đó tự trong lòng mình có sự chống đối, không tán thành việc làm hung bạo này, và chỉ thực hiện công việc vì bị bắt buộc thì có lẽ nghiệp ác tạo ra sẽ được giảm nhẹ. Nhưng nếu trong khi thực hiện công việc ấy mà tự trong lòng ông tán thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương đương với tập tục xấu ác đó, thì chắc chắnquả báo sẽ phải nặng nề hơn.

Nếu người nhạc sĩ nói trên trước đây chỉ thực hiện công việc với một tinh thần trong sạch, hoàn toàn không vì thỏa mãn dục vọng riêng tư, không có lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ác nghiệp tạo ra sẽ được giảm nhẹ.

Cũng theo lập luận đó nên khi thấy rằng người ấy đã chịu quả báo mù lòa trong kiếp này thì ta có thể kết luận ngay rằng ông ta trước đây đã nuôi lòng hung ác trong khi thực hiện công việc hành tội người khác.

Trong chương 11, chúng ta đã thấy rằng một nhận thức không toàn diện về luật nhân quả có thể làm cho người ta phải băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xã hội và không biết phải hành động như thế nào cho hợp lẽ.

Chẳng hạn, chúng ta đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ khốn khó trong kiếp hiện tại. Và nếu những sự khốn khổ của con người đều do những việc làm xấu ác của họ gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có nên ngoảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng:

– Này ông bạn, ông bạn đau khổquả báo do ông bạn tự gây ra chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi không thể giúp gì cho ông bạn, vì tôi không muốn can thiệp vào luật nhân quả.

Và ta có nên nghĩ rằng thiện cảm dành cho những “tội nhân” ấy là một thái độ sai lầm, và lòng nhân từ đối với họ là một điều đặt không đúng chỗ trước những tác động hoàn toàn khách quan của luật nhân quả hay chăng?

Như đã nói, sự thật thì những thắc mắc như trên đều là xuất phát từ một nhận thức không toàn diện về luật nhân quả. Nhưng có lẽ ta cũng không nên giải đáp những câu hỏi này một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự chủ quan bồng bột.

Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không thể không chịu hình phạt xứng đáng. Nếu vì lòng nhân hậu mà người ta để cho kẻ ấy được tự do sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi, thì rất có thể một tội ác tiếp theo đó sẽ xảy ra. Chúng ta cũng biết rằng, một người học trò kém cỏi không thể cố gắng học hết chương trình nếu vị thầy dạy quá dễ dãi và không xử phạt nghiêm khắc những lần trốn học. Chúng ta cũng biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời nếu người mẹ luôn bênh vực không để nó phải chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của người cha.

Tuy thế, sự thờ ơ trước những khổ đau của những người khác không bao giờ có thể xem là một việc nên làm. Do tính chất phức hợp của luật nhân quả nên bản thân việc này cũng là một nhân xấu sẽ mang lại quả xấu cho ta trong tương lai. Trong thực tế, vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng thấy có những người luôn cố gắng hoạt động trong các công trình cứu tế từ thiện để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Những người này thường không có sự suy tính hơn thiệt, mà họ hành động vì sự thúc đẩy của lòng nhân ái. Chúng ta không thể phán xét rằng những người này đang chống lại luật nhân quả khi họ nỗ lực giúp đỡ những người chịu quả báo xấu. Một phán xét như vậy là phiến diệnsai lầm, xuất phát từ sự không hiểu biết đầy đủ về luật nhân quả.

Trở lại với những thí dụ minh họa mà ta vừa nêu ra ở trên. Vị quan tòa phán xử nghiêm khắc một tội nhân không phải do lòng ác độc, mà vì luật pháp của một xã hội đã được soạn thảo theo cách cố gắng bảo vệ tất cả mọi người trong xã hội đó một cách công bằng. Vì thế, vị quan tòa có bổn phận phải tuân theo luật pháp. Và khi ông làm đúng như vậy thì điều đó không thể xem là thiếu lòng nhân ái. Trong thực tế, tất cả những vị quan tòa cương trực, nghiêm khắc thật ra đều là những người tốt, biết gạt bỏ mọi sự tư lợi để luôn hành động theo lẽ phải, vì lợi ích của tất cả mọi người.

Tương tự như thế, một thầy giáo nghiêm khắc không phải là người thiếu tình thương đối với học trò, mà thật ra chính vì yêu thương và mong muốn cho người học trò của mình thành đạt nên ông mới hết lòng quan tâm đến việc học của anh ta cũng như thực hiện mọi biện pháp kỷ luật cần thiết để răn dạy. Một người học trò khi thực sự thành đạt chỉ có thể hết lòng biết ơn về sự dạy dỗ nghiêm khắc của thầy chứ không thể xem đó là những biểu hiện của sự thiếu tình yêu thương.

Cũng vậy, một người cha có thể tỏ ra nghiêm khắc với con cái khi cần thiết, bởi trong lòng ông luôn muốn dành cho con mình một sự giáo dục tốt nhất, chứ không phải vì ông không thương con bằng người mẹ.

So sánh với cả ba trường hợp kể trên thì sự thương yêu giúp đỡ những người khốn khổ trong xã hội hoàn toàn không giống với việc cản trở quan tòa thi hành pháp luật hay ngăn cản người thầy, người cha trong việc dạy dỗ... Bởi vì sự giúp đỡ và an ủi một người khi họ đang rơi vào hoàn cảnh khốn khổ là xuất phát từ tấm lòng chân thật và hướng thiện của ta, còn quả báo mà người ấy đang nhận lãnh là xuất phát từ những tư tưởnghành vi không tốt của họ trong quá khứ. Hai điều này có thể tương tác với nhau nhưng không hề cản trở, mâu thuẫn nhau. Ta có thể giúp giảm nhẹ nỗi đau khổ của một người nhưng không thể ngăn cản quả báo xấu đến với họ, cho dù ta có muốn làm như thế. Nhưng sự giúp đỡ an ủi của ta có thể cảm hóa phần nào những tính xấu có thể đang còn tồn tại nơi người ấy, và điều đó sẽ có tác dụng rất tích cực trong việc giúp giảm nhẹ quả báo mà họ đang hứng chịu.

Mặt khác, khi ta biết thương yêu giúp đỡ người khác là ta đang xây dựng tương lai tốt đẹp cho chính mình. Và nếu tất cả mọi người đều biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau thì một cộng đồng xã hội như vậy chắc chắn sẽ là một môi trường tốt đẹplý tưởng cho tất cả mọi người. Vì thế, ta không thể vì những lỗi lầm trong quá khứ của một người mà quay lưng với người ấy, khiến cho bản thân mình lại trở thành một kẻ lãnh đạm, thờ ơ, khô khan tình cảm. Ngay cả sự khoan hồng đối với tội nhân cũng luôn được thực hiện ở nhiều xã hội khác nhau, và không ai cho đó là một sai lầm. Vì chính sự khoan dungtha thứtác dụng chuyển hóa còn mạnh mẽ hơn cả những hình phạt nghiêm khắc nhất. Trong một số trường hợp, sự trừng phạt có thể tạo ra tâm trạng oán hận và có tác dụng ngược lại, trong khi sự khoan hồng bao giờ cũng mang đến sự biết ơncảm hóa.

Cuộc đời của ông Edgar Cayce có thể xem là một tấm gương vị thatích cực giúp đỡ người khác. Những người đến với ông trong cơn khốn khổ đều được ông giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để giúp họ giảm nhẹ mọi nỗi đau khổ, cho dù hơn ai hết ông luôn nhìn thấu mọi tội lỗi, sai lầm của họ trong quá khứ. Trong suốt bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và nhân ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràngcon người luôn chịu sự chi phối của luật nhân quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận rằng lòng thương yêulý tưởng phụng sự bao giờ cũng là nền tảng dẫn đến mọi điều tốt đẹp.

Vì thế, bất kể rằng tội lỗi của một người khác là như thế nào trong những kiếp quá khứ, ta vẫn nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng bao giờ lầm tưởng rằng làm như thế là có thể can thiệp vào tác động của luật nhân quả.

Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng sự thờ ơ lãnh đạm truớc sự đau khổ của kẻ khác cũng là một điều xấu ác sẽ đưa đến quả báo xấu về sau này.

Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người luôn có quyền tự do ý chí trong mọi hành động và không phải tất cả mọi việc trong cuộc đời đều đã được định sẵn từng chi tiết một cách bất di bất dịch. Mỗi một sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đang khổ đau hoạn nạn không chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự hoàn thiện tâm hồn mình, mà còn là một nhân tố tích cực có thể làm thay đổi cả thái độ tinh thầncuộc đời của đương sự.

Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả đều là do tư tưởnghành vi tạo nên. Những hành vi sai trái, những cung cách xử thế sai lầm, đều có nguyên nhân từ sự lầm lạc trong tư tưởng. Vì thế, người ta chỉ có thể thay đổi thái độ đối với cuộc đời theo hướng tốt đẹp hơn bằng cách hoàn thiện phần tư tưởng.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố xác định rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và nếu không có sự thay đổi tư tưởng theo hướng tốt đẹp hơn thì người ta không thể sửa đổi lại những nghiệp quả xấu ác đã gây ra từ trước.

Luật nhân quả quyết định một cách chắc chắn rằng mỗi con người tự tạo nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật nhân quả không áp đặt bất cứ điều gì lên sự tự do ý chí của con người, nhưng đảm bảo một cách chính xác rằng mỗi một hành vi hay tư tưởng của chúng ta trong hiện tại đều sẽ mang đến những kết quả tương xứng trong tương lai. Và điều này thúc đẩy mọi người phải hết sức nỗ lực để tự tu dưỡng bản thân, hướng đến một tương lai ngày càng tốt đẹp hơn nữa.

Chính vì hiểu rõ luật nhân quả nên người Phật tử luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm của cuộc đời. Điều mà họ quan tâm nhất không phải là hoàn cảnh trong hiện tại tốt hay xấu, mà chính là việc mình đã làm được những gì để tích lũy cho tương lai. Và quan điểm sống đó bao giờ cũng giúp họ tích cực vươn lên trong cuộc sống, cho dù có gặp phải nhiều khổ đau và bất hạnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19755)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20844)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19150)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40353)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21163)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40946)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24011)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22968)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17753)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26787)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20626)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33494)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28713)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12627)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19057)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17407)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33163)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38243)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24390)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19382)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17816)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22863)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17953)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31984)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17298)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17327)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16003)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18510)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20686)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17935)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20020)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14769)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20800)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15014)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15688)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29237)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12687)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14433)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant