Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương III: Những lời tiên tri

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7138)
Chương III: Những lời tiên tri

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG III: NHỮNG LỜI TIÊN TRI

Một hôm, sư phụ hỏi tôi:

– Mukunda, tại sao con không đeo một món linh phù hộ thân?

– Bạch thầy, vì con chỉ tin vào nhân quả mà thôi.

Tôi nhớ lại món linh phù mà mẹ tôi đã để lại cho tôi và sự biến mất kỳ lạ của nó vào lúc tôi gặp được sư phụ Śrỵ Yukteswar. Quả thật, tôi chỉ thừa hưởng món linh phù ấy do mẹ tôi trao lại, còn bản thân tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc dùng một vật hộ thân để làm thay đổi số mệnh của mình.

Sư phụ nói:

Vấn đề không phải là con có tin hay không. Thái độ đúng đắn nhất đối với một vấn đề là xác định xem nó đúng hay không đúng, thay vì là tuyên bố tin hay không tin. Trước thời Newton, người ta không phát biểu được định luật về trọng lượng, nhưng những trái táo vẫn tự biết phải rơi như thế nào. Con người từ rất lâu xa trước đây đã nhận biết được nhiều phương thức tác động tích cực vào cuộc sống. Điều đó không có nghĩa là đi ngược lại luật nhân quả, nhưng nó có sự lý giải riêng của nó.

– Bạch thầy, nhưng có quá nhiều những tay bói toán đã lạm dụng sự mê tín của con người.

– Đúng vậy. Và bọn họ đã làm hoen ố đi những khoa học thật sự mà người xưa truyền lại. Chẳng hạn như khoa chiêm tinh hoặc khoa tướng số... Trong thực tế, một nhà hiền triết chân chính am hiểu khoa chiêm tinh có thể nhìn thấy trước số mạng của một người hoặc nhiều người trong một chừng mực nào đó. Điều đó có nghĩa là ông ta căn cứ vào những biểu hiện trong vũ trụ để đọc được quá khứ của một người, và biết được nó sẽ dẫn đến một tương lai như thế nào, nhưng không có nghĩa là ông ta có quyền năng làm cho sự việc sẽ xảy ra như thế nào hoặc ngăn cản được sự xảy ra của chúng. Tuy vậy, có những phương thức tác động nhất định có thể tạo ảnh hưởng thay đổi tích cực, và thông thường thì nguyên lý hoạt động của những phương thức này chính là nhờ vào đức tin. Đứng từ một góc độ nào đó, sức mạnh của đức tin cũng là một trong những nguyên nhân để tạo ra hoặc làm thay đổi nghiệp quả của một con người. Xét cho cùng, nhân và quả của mỗi con người cũng là do chính người ấy tạo ra chứ không ai khác. Vì vậy, thay đổi đức tin của anh ta theo một chiều hướng nào đó có thể giúp làm chuyển biến tích cực những điều xảy đến cho anh ta.

Tôi im lặng một lúc lâu rồi mới đánh bạo thưa hỏi:

– Bạch thầy, con vẫn chưa hiểu vì sao hôm nay thầy nói với con những điều ấy?

Sư phụ nhìn tôi với ánh mắt cảm thông, vì người đọc thấu sự hoang mang của tôi lúc ấy:

– Này Mukunda, nếu con chỉ là một tu sĩ bình thường đi tìm sự giải thoát ở một mức độ nào đó cho chính bản thân mình, ta cũng không cần quan tâm nhiều đến con như thế. Nhưng đến hôm nay ta có thể nói cho con biết rằng trách vụ của con lớn hơn thế rất nhiều. Con sẽ là người thay ta đảm đương việc truyền giáo sang phương Tây, và điều đó buộc con phải có một kiến thức rộng về đủ các bộ môn khoa học, nếu như con muốn rằng tiếng nói của con được người ta lắng nghe.

– Bạch thầy, con sẽ cố gắng.

– Ta biết con không tin vào khoa chiêm tinh, và đã có lần con đốt bỏ lá số tử vicha mẹ đã xin cho con. Sự vững tin vào nhân quả là điều rất tốt, nhưng thái độ của con còn có phần nào đó xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về khoa học này.

Tôi hơi có phần ngạc nhiên, nhưng rồi tự kiềm chế được. Quả thật không có chuyện gì thầy tôi không biết được, ngay cả những việc xảy ra từ trong quá khứ mà chính tôi tưởng chừng cũng đã lâu không nhớ đến.

Ngày tôi còn bé, cha mẹ tôi có xin cho tôi một lá số tử vi. Trong đó có đoạn nói rằng tôi sẽ cưới vợ ba lần và hai lần góa vợ. Từ khi tôi bắt đầu khôn lớn, tôi đã lấy làm khó chịu về lời tiên tri đó, bởi vì ngay cả việc cưới vợ cũng đã không phải là điều tôi nghĩ đến. Một hôm, tôi đốt lá số tử vi ấy đi, lấy tro bỏ vào một phong bì bằng giấy và bên ngoài ghi lên dòng chữ rằng:

“Chỉ những hạt giống đã gieo vào đất ẩm mới có thể nảy mầm và đơm hoa kết trái.”

Tôi đặt phong bì ấy trở lại nơi cất lá số tử vi để mọi người đều biết việc làm của mình. Anh Ananta đã chế nhạo tôi rằng: “Em không thể đốt cháy sự thật giống như lá số tử vi này. Những gì đến sẽ đến.”

Thật ra, tôi không nghĩ là bằng cách đốt cháy lá số tử vi tôi có thể làm thay đổi vận số, nhưng tôi tin rằng những điều kiện tinh thần hôm nay chính là mảnh đất để những hạt giống của quá khứ đâm chồi. Và nếu tôi cương quyết không tưới tắm, chăm sóc cho những hạt giống ấy thì nó không thể dễ dàng nảy mầm lên được. Tôi nghĩ như vậy là vì tôi đã cương quyết sẽ sống cuộc đời tu sĩ mà không lập gia đình như anh tôi. Nhưng anh Ananta đã không có đủ hiểu biết để nhận ra ý nghĩa sâu xa trong lời thách thức số mệnh của tôi.

Quả thật, cho đến khi tôi bước vào tuổi trưởng thành, gia đình tôi trước sau đã ba lần tính chuyện hôn nhân cho tôi, và bằng cách này hay cách khác tôi đều phản đối thành công những kế hoạch ấy. Về sau, khi nghĩ đến khoa chiêm tinh và các lá số tử vi, tôi không có mấy ấn tượng tốt đẹp ngoài việc cho rằng chỉ là những lời đe dọa vớ vẩn dành cho những người thiếu hẳn đức tin.

– Bạch thầy, không phải thầy đã dạy con rằng, người ta phải lãnh chịu những quả báo tốt hoặc xấu mà họ đã tạo ra, và không có cách nào để tránh né hoặc trốn chạy? Như vậy thì những lá số tử vi liệu có ích lợi gì? Và nói chung thì khoa chiêm tinh liệu có ích lợi gì?

Thầy tôi cười bao dung:

– Sẽ có ngày con không nghĩ như thế nữa, nếu như con hiểu biết nhiều hơn về khoa chiêm tinh. Những người đi trước chúng ta đã đúc kết trí tuệ tinh hoa của nhiều đời để nhận biết rằng có một mối tương quan nhất định giữa mỗi con người với toàn thể vũ trụ này, và nói cụ thể hơn là với một số các vì tinh tú trên bầu trời, với vị trí và sự chuyển vận của chúng. Những mối tương quan ấy được xác lập không do một ý chí quyền năng nào, mà do chính nơi những nghiệp quả tốt hoặc xấu của mỗi người. Nếu một người hiểu được và nhìn thấy rõ những mối tương quan ấy, người đó cũng đồng thời có được những phản ứng tích cực hơn thay vì chỉ chờ đợi mọi việc tuần tự xảy đến.

– Bạch thầy, như thế không phải là chống lại luật nhân quả hay sao?

Thầy tôi bật cười:

– Liệu con có thể chỉ ra được một cách rạch ròi rằng đâu là nhân, đâu là quả của một người trong một sự việc hay không? Con nên nhớ rằng, một sự việc nếu được xem là quả của quá khứ thì đồng thời cũng chính là nhân của tương lai. Thậm chí ngay trong mỗi một sự việc, có những yếu tố được quyết định do nghiệp lực từ đời trước, nhưng cũng có những yếu tố lại được quyết định ngay trong giây phút hiện tại. Sự đan xen phức tạp, tinh vi ấy đã làm cho không một trí tuệ nào của người đời có thể thấy rõ được tất cả mọi yếu tố nhân quả, mà chỉ có bậc đã giác ngộ hoàn toàn, đấng Như Lai Chánh Đẳng Giác mới có thể thấy rõ và hiểu đúng được tất cả.

– Bạch thầy, xin cho con một ví dụ.

– Như có một nhóm người đang muốn đi Calcutta, họ cùng ngồi trên một chiếc xe để chờ khởi hành. Khi xe sắp chạy thì một người trong số đó nhìn thấy bên kia đường có một con chó, vì bới đống rác để tìm thức ăn nên bị một cái thùng gỗ rơi xuống đè vào chân. Con chó không sao rút chân ra được. Người ấy động lòng thương liền chạy sang để cứu con chó. Khi anh ta bẩy cái thùng gỗ nặng nề lên và lôi được con chó ra thì chuyến xe đã khởi hành mất rồi. Anh ta đành phải lấy làm tiếc mà ngồi đợi chuyến xe sau. Không ngờ chuyến xe trước ấy vừa ra khỏi thành phố thì gặp tai nạn và lật nhào xuống ruộng, mọi người không còn ai sống sót. Con có thể nhìn những điều ta nói qua sự việc này. Cộng nghiệp sẽ xảy đến cho cả nhóm người này là họ phải chết trong vụ tai nạn lật xe. Những điều ấy được quyết định từ ác nghiệp nào đó họ dã gây ra vào những thời điểm khác nhau trong quá khứ. Nhưng ngay trong giây phút mà nghiệp quả đã chín muồi, một người trong số họ đã phát khởi lòng thương với một sinh vật. Hành vi này được quyết định ngay trong giây phút hiện tại, xuất phát từ tâm lành của chính anh ta mà không phải do sự thúc đẩy của nghiệp lực. Chính nhờ một quyết định đúng đắn, một việc lành được thực hiện đúng lúc, anh ta đã thoát khỏi một cái chết thê thảm do nghiệp lực đưa đến.

– Bạch thầy, như vậy con hiểu là trong mọi trường hợp, phát khởi thiện tâm bao giờ cũng là cách tốt nhất để tác động tích cực vào nghiệp lực.

Hoàn toàn chính xác. Nhưng ngoài ra thì những tha lực hộ trì cũng có những tác động nhất định. Chẳng hạn như hôm nay ta sẽ cho con một bài học về việc ấy.

– Bạch thầy, con xin lắng nghe.

– Ta đã nghiệm cho con một lá số tử vi ngay trong lúc này, và biết rằng trong một thời gian ngắn nữa con sẽ mắc phải một căn bệnh rất khó chịu. Căn bệnh ấy sẽ kéo dài trong 6 tháng. Tuy nhiên, ta có một món linh phù mà chính ta đã làm phép chú nguyện vào. Nếu con đeo nó vào người từ nay đến ngày đó, căn bệnh sẽ được rút ngắn còn lại 24 ngày. Trong việc này, ta cho con hoàn toàn quyết định, con có thể nhận đeo nó hoặc là không đeo.

Sư phụ nói rồi đưa cho tôi một vật nhỏ có vẻ như được đúc bằng bạc và chì, có dây đeo. Tôi quyết định đeo nó vào người ngay trước mắt sư phụ để tỏ cho người thấy tôi hoàn toàn tin tưởng vào lời dạy của người, cho dù bản thân tôi quả thật chưa hiểu rõ. Kinh nghiệm qua nhiều lần tỏ thái độ hoài nghi với sư phụ đã cho tôi thấy là bao giờ cũng chỉ dẫn đến sự hối tiếc mà thôi.

Tuy vậy, trong thâm tâm tôi lấy làm nôn nóng mà chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra, bởi vì sức khỏe tôi lúc ấy đang rất tốt nên việc ngã bệnh có vẻ như phần nào thật khó tin.

Sau đó mấy hôm thì sư phụ có việc đi Bénarès. Còn tôi thì cũng quên dần đi lời tiên tri của người.

Nhưng chưa được một tuần lễ sau nữa thì tôi bắt đầu nghe đau nhói ở bên hông. Thầy thuốc địa phương cho biết tôi bị đau gan nhưng ông không chắc lắm trong việc chữa trị vì không có đủ thuốc men. Tôi quyết định đặt trọn niềm tin vào sư phụ.

Những ngày sau đó thật là dài lê thê với những cơn đau hành hạ và tôi suy nhược nhanh chóng vì chẳng ăn uống gì được bao nhiêu. Tôi dồn mọi nỗ lực vào công phu thiền định và nghĩ đến món linh phù sư phụ đã cho tôi như một lá bùa hộ mệnh.

Hơn ba tuần sau, khi tôi tưởng chừng như mình không còn đủ sức để chịu đựng lâu hơn nữa thì sư phụ trở về như một cứu tinh.

Sư phụ vào phòng thăm tôi ngay khi vừa trở về đạo viện. Thầy lấy tay xoa đầu và hỏi han bệnh tình của tôi. Tôi ứa nước mắt vì cơn đau mà cũng vì vui mừng được gặp lại sư phụ trong những giây phút nguy nan của đời mình:

– Bạch thầy, xin hãy cứu con.

– Con quên lời ta đã nói rồi sao? Nếu con thật sự tin tưởng ta thì chẳng có gì phải lo lắng cả.

Tôi nhẩm tính và chợt nhận ra ngày hôm đó đúng là ngày thứ 24 kể từ hôm tôi phát bệnh. Sư phụ tự tay pha cho tôi một ly nước nóng và đỡ tôi ngồi dậy trên giường bệnh. Tôi uống hết ly nước và thầy bảo tôi hãy nằm yên để nghỉ ngơi.

Đêm hôm đó, tôi ngủ một giấc rất say và giật mình thức giấc vào khoảng nửa đêm. Một cảm giác nóng ran dễ chịu nơi món linh phù tôi đeo trên ngực, lan dần ra khắp vùng ngực và rồi xuống đến vùng bị đau. Tôi có cảm giác nơi chỗ đau ngày càng nóng lên, ban đầu rất dễ chịu, rồi sau đó nóng bỏng đến cực độ. Khoảng nửa giờ sau thì những cảm giác ấy dần dần tan biến mất. Tôi đưa tay sờ vào chỗ bị đau và kinh ngạc khi nhận ra đã không còn cảm giác gì nữa. Toàn thân tôi không còn nghe mỏi mệt rã rời như suốt mấy tuần lễ qua, mà thay vào đó là một sự sảng khoái, thanh thảnđã lâu tôi không có được.

Ngày hôm sau, tôi hoàn toàn bình phục trước sự ngạc nhiên của tất cả huynh đệ trong đạo viện. Tuy vẫn còn gầy ốm nhưng tôi ăn uống trở lại bình thường và không còn bị cơn đau hành hạ nữa. Và khoảng hai tuần sau thì tôi đã lấy lại được sức khỏe như trước.

Một buổi tối, sư phụ gọi tôi lên phòng của người và nói:

– Thầy hy vọng là qua lần này con đã hiểu ra được nhiều điều. Có những khoa học tuy không nên lấy đó làm cứu cánh nhưng cũng không thể tùy tiện phủ nhận tính đúng thật của nó khi chúng ta chưa có đủ hiểu biết. Trên đường hoằng hóa sau này, con còn phải dựa rất nhiều vào đức tinkiến thức bao quát của mình. Thầy mong rằng từ nay con sẽ chín chắn hơn và sẵn sàng học hỏi những điểm mới thay vì là cố chấp vào những gì đã biết.

Cuộc đời phiêu bạt đầy sóng gió của tôi về sau đã chứng tỏ sự lo xa và những lời dạy dỗ của sư phụhoàn toàn đúng đắn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19756)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20844)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19152)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40354)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21164)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40948)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24012)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22969)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17754)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26789)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20626)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33494)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28714)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12627)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17407)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33164)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38247)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31097)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24391)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19384)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17817)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22863)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17953)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31985)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17298)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17328)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16005)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20686)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17937)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20020)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14769)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20800)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15688)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29238)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12690)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14434)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant