Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương XII: Cuộc gặp gỡ trên Hy Mã Lạp Sơn

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10951)
Chương XII: Cuộc gặp gỡ trên Hy Mã Lạp Sơn

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG XII: CUỘC GẶP GỠ TRÊN HY MÃ LẠP SƠN

Mùa thu năm 1861, Shyama Charan Lahiri vừa được 33 tuổi và đang làm nhân viên kế toán phục vụ trong quân đội Anh. Một hôm, hết sức bất ngờ, người nhận được lệnh điều động lên Ranikhet, nơi có một tiền đồn quân sự vừa được thành lập.

Chuyến đi đến nhiệm sở mới dài năm trăm dặm, khá vất vả vì phải đi nhiều chặng, có lúc đi ngựa, có lúc đi xe... Và sau khoảng một tháng thì người đến nơi, một vùng núi non hiểm trở đã nằm hẳn dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn.

Công việc quả thật vô cùng nhàn tản, hầu như chẳng có gì. Vì thế, phần lớn thời gian trong ngày được người dùng để dạo chơi, thăm thú những vùng phụ cận. Người ta cho biết đây là một trong những vùng thường xuất hiện các vị đạo sĩ, tu sĩ ẩn tu đã chứng ngộ.

Một buổi chiều kia, khi người đang đi dạo ven một khu rừng gần đó thì bỗng nghe có tiếng gọi tên mình. Theo hướng đó, người leo lên một vách núi cheo leo của ngọn Drongiri mà tìm đến, trong lòng lo ngại sẽ không kịp quay lại để về nhà trước khi trời tối. Tuy vậy, có một sức hấp dẫn lạ kỳ trong tiếng gọi khiến cho người không sao cưỡng lại được mà phải náo nức đi theo.

Vượt qua khỏi vách núi, người băng qua một khoảng trống nhỏ và đến trước một hang động. Hai bên đều là vách núi dựng đứng, rõ ràng không còn một lối đi thứ hai nào có thể dẫn đến đây ngoài lối đi mà người vừa vượt qua.

Trong ánh nắng chiều đã sắp tắt, Shyama Charan Lahiri nhìn thấy một thanh niên lực lưỡng khoảng chừng hơn hai mươi tuổi đang ngồi trong tư thế thiền định. Kỳ lạ thay, thanh niên này có hình dáng giống hệt như chàng, chỉ khác một điều là có mái tóc màu đỏ hung.

Người thanh niên mở mắt nhìn thầy, đưa tay làm một cử chỉ đón tiếp và cất giọng nói trìu mến bằng tiếng Bắc Ấn:

– Con đã đến rồi, Lahiri.

Ngạc nhiên vì cách xưng hô này cũng như vì sự gặp gỡ quá bất ngờ, Shyama Charan Lahiri tiến đến thật gần để nhìn cho kỹ. Bất ngờ, người cảm thấy như có những nét quen thuộc mơ hồ nào đó trong hình dáng người thanh niên và khung cảnh động núi nơi đây, nhưng trong một lúc không sao nhớ ngay ra được.

Người thanh niên đứng dậy, đưa tay nắm lấy tay Shyama Charan Lahiri. Một sức mạnh kỳ lạ khiến cho người không hề ngần ngại mà đưa tay cho anh ta ngay, và sau đó đi theo anh ta vào động núi.

Hóa ra hang động nhìn từ bên ngoài vào thật ra chỉ là một cửa động. Sau khi bước vào, một con đường hẹp bên trong đưa hai người đi quanh co một lát và dẫn đến một khoảng sân rộng, có những tảng đá nằm rải rác đều đặn có vẻ như được bố trí để làm ghế ngồi. Phía cuối khoảng sân có một gò đá tự nhiên cao hơn, bên trên là một tảng đá lớn bằng phẳng. Người thanh niên lạ mặt đưa Shyama Charan Lahiri lên tảng đá ấy. Từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn ra bao quát hết cả khoảng sân rộng, như một khán đài lý tưởng. Quả thật, các ghế đá trong sân được sắp xếp theo hàng lối nghiêm chỉnh. Rõ ràng đây là một nơi được dùng vào mục đích thuyết giảng cho đám đông.

Khi cả hai đã lên đến tảng đá bằng phẳng nằm trên cao nhất, người thanh niên đưa tay chỉ vào một tảng đá nhỏ hơn bên cạnh, ra hiệu cho Shyama Charan Lahiri ngồi xuống. Sau đó, anh ta bắt đầu nói bằng một giọng đều đều:

– Lahiri Mahsaya! Ngay tại đây, trên bục giảng này, con đã từng trợ lực với ta rất nhiều năm trong việc thuyết pháp. Ngày hôm nay nhiệm vụ của con đã đổi khác, nhưng ta muốn con hãy nhớ lại quá khứ của mình để có thể thuận tiện hơn cho việc tu tập.

Cùng với lời nói này, người thanh niên đưa tay đặt lên đỉnh đầu Shyama Charan Lahiri và ấn nhẹ xuống. Một sức mạnh lạ lùng khiến người ngay lập tức phải ngồi xuống tảng đá. Một luồng hơi nóng dễ chịu bắt đầu tỏa ra từ người thanh niên, và khung cảnh chung quanh bất chợt sáng lên trong một thứ ánh sáng huyền ảo, bất chấp lúc bấy giờ mặt trời đã tắt hẳn.

Trong một lát thì Shyama Charan Lahiri nhớ lại quá khứ của mình.

Chính ngay tại đây, trong động đá này, người đã từng là môn đệ thân cận nhất của đức Babji trong rất nhiều tiền kiếp. Và đức Babji chính là người thanh niên đã đưa thầy vào đây. Mặc dù là một vị tu sĩ ẩn cư đã vào Hy Mã Lạp Sơn này không biết tự bao giờ, nhưng đức Babji không hề chịu sự chi phối của tuổi già. Ngài luôn luôn giữ vóc dáng của một thanh niên hai mươi lăm tuổi, bất chấp ngày tháng trôi qua và nhiều thế hệ đệ tử đã qua bàn tay dìu dắt, đào tạo của ngài.

Sau khi nhớ ra được quá khứ, Shyama Charan Lahiri liền quỳ xuống lễ bái đức Babji với tấm lòng thành kính và một sự xúc động vô hạn. Và cùng lúc đó, những kinh nghiệm tâm linh trong việc tu tập thiền định lập tức trở lại cùng với người. Shyama Charan Lahiri ngồi xuống tảng đá quen thuộc của mình và bắt đầu nhập vào thiền định.

Hai người cùng ngồi yên trong bầu không khí tịch lặng qua nhiều giờ đồng hồ. Cuối cùng, đức Babji ra khỏi thiền định và gọi Shyama Charan Lahiri:

– Lahiri Mahsaya! Chúng ta không có nhiều thời gian lắm. Con còn phải trở về với nhiệm vụ của mình ở chốn thế tục. Hôm nay ta cho gọi con đến đây là để giúp con rút ngắn thời gian tu tập trong kiếp này bằng cách nhớ lại những kinh nghiệm quá khứ đã đạt được. Ngoài ra, ta cũng muốn dặn dò con đôi điều.

– Bạch sư phụ, xin người cứ dạy bảo.

– Từ trước đến nay, pháp môn thiền định của ta không truyền dạy cho những đệ tửcăn cơ thấp. Tuy nhiên, những năm sắp tới đây sẽ có rất nhiều biến động trong thế cuộc, đòi hỏi con người cũng phải có những chỗ dựa tinh thần chắc chắn để giữ vững được thiện căn. Vì vậy, ta cho phép con truyền rộng pháp môn này cho tất cả mọi người, như một vũ khí để giúp người ta chống lại sự suy thoái tinh thần quá nhanh chóng trong thời đại mới.

– Bạch sư phụ, như vậy có phải là làm giảm thấp giá trị của pháp môn thiền định hay chăng?

Giá trị của một pháp môn được xác định thật sự bởi những hành giả đạt đến chứng ngộ tuyệt đối nhờ vào pháp môn ấy. Không phải vì có nhiều người tu tập không đạt đến chứng ngộ hoàn toàn mà có thể làm suy giảm giá trị của một pháp môn. Mặt khác, cho dù không đạt đến sự giải thoát tuyệt đối, nhưng người ta có thể giảm nhẹ sự đau khổ trước mắt bằng vào việc tu tập thiền định. Và đó là một nguồn lợi lạc rất lớn mà chúng ta không thể không mang đến cho tất cả mọi người.

Cuộc trao đổi đến đây thì bắt đầu chuyển hướng, xoay quanh một số vấn đề về việc tu tập thiền định mà đức Babji muốn chàng thanh niên Shyama Charan Lahiri, tức thầy Lahiri Mahsaya, cần phải chú trọng nhiều hơn khi truyền dạy pháp môn thiền định một cách phổ cập. Chính những lời chỉ dạy quý báu này về sau đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều thế hệ truyền nối nhau trong việc tu tập pháp môn thiền định.

Đến gần sáng thì hai thầy trò chia tay nhau. Thầy Lahiri Mahsaya có cảm giác như mình đã trở nên một con người mới. Bao nhiêu những ham muốn, dục vọng của đời sống thế tục bỗng nhiên tiêu tan không còn chút hấp dẫn, quyến rũ nào đối với người. Người nhận ra lý vô thường của vạn vật mà chỉ những bậc chân sư đã chứng ngộ mới có thể trải nghiệm được một cách hoàn toàn. Hơn thế nữa, người thấy tinh thần trở nên minh mẫn, sáng suốt và có thể nhớ lại tất cả những chi tiết dù là vụn vặt nhất trong các đời sống quá khứ.

Sau đó ít lâu liền có lệnh của đơn vị thuyên chuyển thầy trở về Danapur. Tại đây, thầy bắt đầu công cuộc truyền bá pháp môn thiền định mà không bao lâu đã được mọi người khắp nơi biết đến. Số môn đệ đến thọ giáo với thầy ngày càng đông đảo, có lúc lên đến mấy ngàn người.

Trong số đó, có cả hoàng tử của vua Isvari Narain Sinha Bahadur cùng với Quốc vương Yotindra Mohan Thakhur.

Năm 1886, thầy Lahiri Mahsaya chính thức hưu trí, từ bỏ công việc của một người thế tục và dành trọn thời gian cho việc truyền bá đạo pháp, dắt dẫn môn đệ. Tuy vậy, thầy luôn giảng pháp tại tịnh thất của mình mà rất ít khi dời gót đến bất cứ nơi đâu. 

Mùa đông năm 1895, thầy Lahiri Mahsaya rời bỏ thân xác phàm tục sau một quãng thời gian thuyết giáo không mệt mỏi, để lại sự thương tiếc cho hàng ngàn tín đồ và các bậc tu sĩ đạo hạnh khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28148)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6657)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8760)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9273)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15346)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8227)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8656)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16672)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26897)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18587)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15584)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22468)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19388)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18263)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16137)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25551)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12842)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37815)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20037)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10685)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10001)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10523)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10348)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11006)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15146)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10815)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19625)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11667)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10739)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11204)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10082)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10537)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11521)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10867)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11375)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12116)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11019)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12976)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17703)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15146)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15616)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10959)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12066)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11017)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21751)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12057)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9156)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20139)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17212)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10051)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant