Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương XVII: Trở về Ấn Độ

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7689)
Chương XVII: Trở về Ấn Độ

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG XVII: TRỞ VỀ ẤN ĐỘ

Năm 1935.

Tôi đã trải qua đúng 15 năm trên đất Mỹ. Công cuộc hoằng pháp đã tiến hành đúng như dự tính, và với những hoạt động không ngừng nghỉ của tôi trong suốt 15 năm đó, những việc cần làm hầu như đều đã được làm xong.

Tôi đã thành lập thêm một đạo viện nữa ở California. Những đạo viện của tôi đều được hợp pháp hóa, được chính thức công nhận như những tổ chức giáo dục phi thương mại và được phép nhận tiền đóng góp của công chúng. Ngoài ra tôi cũng đã hình thành được một mạng lưới phát hành những sách vở, tạp chí do chúng tôi thực hiện, với nguồn lợi tức hàng năm khá lớn được đóng góp vào cho những hoạt động giáo dục của các đạo viện.

Tôi cảm thấy đã đến lúc quay về Ấn Độ.

Khi tôi công bố tin này, hầu hết các đệ tử của tôi đều thấy bất ngờ và không vui. Họ vẫn còn quyến luyến và không nghĩ là có thể tự lực tu tập tốt khi thiếu đi sự hướng dẫn của tôi. Nhưng đối với tôi thì đó lại chính là lý do mà tôi cần phải rời khỏi họ một thời gian. Người đệ tử tu tập không thể dựa mãi vào sự dắt dẫn của thầy mà cần phải biết tự mình vươn tới giải thoát. Vì thế, bất chấp những sự luyến lưu bịn rịn, tôi vẫn giữ nguyên quyết định của mình.

Trước khi lên đường trở về Ấn Độ, tôi nói với các đệ tử của mình:

– Các con hãy yên tâm, thầy sẽ trở lại với các con một ngày gần đây.

Tôi rời New York vào ngày 9 tháng 6 năm 1935, trên chuyến tàu Europa. Cùng đi với tôi trong chuyến hồi hương này còn có hai đệ tử đã lớn tuổi là ông Richard Wright và bà Ettie Bletch.

° ° °

Khi tàu đến Luân Đôn, tôi nhận được lời mời thuyết pháp tại giảng đường Caxton Hall. Một vị nhân sĩ người Anh là ông Francis Younghusband giới thiệu tôi với các thính giả Luân Đôn. Sau buổi thuyết pháp, tôi đi tham quan một số nơi rồi tiếp tục hành trình.

Tôi rời Luân Đôn trên chuyến tàu Rajputana. Tàu về đến cảng Bombay của Ấn Độ vào ngày 22 tháng 8 năm 1935. Sau bao nhiêu năm xa cách, giờ đây tôi cảm thấy thật thoải mái khi có thể ngửa mặt lên trời và hít một hơi dài đầy căng buồng phổi thứ không khí trong lành quen thuộc của quê nhà.

Mặc dù vậy, tôi cũng đã dự đoán trước những ngày tháng bận rộn sẽ bắt đầu ngay từ khi đặt chân lên mảnh đất quê hương mình. Bạn bè và thân quyến chờ đón tôi ngay trên bến cảng với những tràng hoa tươi và những cái ôm choàng siết chặt đầy tình thân ái. Chúng tôi đến khách sạn Taj Mahal để đăng ký phòng. Ngay lập tức, chúng tôi bị vây quanh tại đó bởi các phóng viên báo chí và các nhiếp ảnh viên. Phải vất vả lắm chúng tôi mới có thể thỏa mãn được một phần những yêu cầu của họ.

Chúng tôi ký gửi chiếc xe Ford mang theo từ Hoa Kỳ cho Sở hỏa xa, rồi lên tàu đi Calcutta.

Đến ga Howrah, chúng tôi được tiếp đón bởi một số người đông đảo ngoài sức tưởng tượng của tôi. Việc tiếp đón không chỉ là đông đảo mà còn có tổ chức hẳn hoi. Vị Tiểu vương Kasimbazar và em trai tôi là Bishnu cùng phụ trách Ủy ban tổ chức. Tôi không thể nào ngờ được rằng việc tiếp đón chúng tôi lại long trọng và nồng nhiệt đến thế.

Cha tôi đã ôm chặt lấy tôi như thể ông sẽ không bao giờ buông tôi ra nữa. Những năm xa cách đã làm cho tình cảm của ông không thể kiềm chế trong lòng như xưa. Rồi ông khóc nức nở như trẻ con vì vui sướng. Tất cả những người thân, bạn bè, ai ai cũng đều rưng rưng những giọt lệ vui mừng.

° ° °

Hôm sau, tôi đi Serampore để viếng thăm sư phụ Śrỵ Yukteswar. Chúng tôi đi bằng xe hơi, do ông Wright lái. Xe chạy ngang qua những hàng quán đơn sơ cất dọc hai bên đường mà đã lâu tôi không nhìn thấy. Một trong những quán cơm bên đường này là nơi tôi đã từng dùng bữa trưa trong suốt những năm học đại học. Khi gần đến nơi, xe rẽ vào một con đường hẹp chạy giữa hai bên là những bức tường. Đi hết đoạn đường này, rẽ trái là chúng tôi sẽ trông thấy được đạo viện.

Sau nhiều năm sống trên đất Mỹ, hôm nay được nhìn thấy lại khung cảnh thân thương này, lòng tôi bồi hồi xúc động. Chỉ có điều, ngôi nhà hai tầng này ngày xưa đối với tôi là to lớn, đồ sộ biết bao, thì giờ đây tôi có cảm giác như nó thật nhỏ nhoi và đơn sơ quá. So với những cơ sở mà tôi đã xây dựng trên đất Mỹ thì ngôi đạo viện này quả thật chẳng thấm vào đâu. Tuy vậy, tôi cảm thấy một bầu không khí ấm áp và yên tĩnh vô cùng quen thuộc mà đã quá lâu tôi phải xa rời.

Chúng tôi đậu xe bên ngoài và đi bộ vào, băng qua khoảng sân nhỏ của đạo viện. Càng lúc, tâm trạng của tôi càng thêm hồi hộp. Khi đếm bước trên những bậc thềm bằng đá, tôi cảm thấy quả tim nhỏ bé của tôi rộn lên như muốn nhảy vọt ra bên ngoài. Và kìa, sư phụ Śrỵ Yukteswar đã bất ngờ xuất hiện ngay bên trên cầu thang, trong dáng điệu cao quý của một nhà hiền triết.

Tôi bước đến quỳ mọp dưới chân sư phụ với tất cả sự thành kính. Khi tôi đứng dậy, sư phụ ôm chầm lấy tôi trong một cử chỉ vô cùng thân thiết.

Tất cả chúng tôi đều im lặng, không ai nói ra lời nào. Nhưng trong im lặng, chúng tôi hoàn toàn hiểu thấu được lòng nhau, hiểu thấu được những tình cảm sâu xa mà trong thời gian xa cách chúng tôi đều đã phải giấu kín tận đáy lòng. Đôi mắt sáng long lanh của sư phụ Śrỵ Yukteswar biểu lộ một niềm hạnh phúc vô biên khi gặp lại được người học trò mà người yêu mến.

Rồi hai vị đệ tử của tôi cũng đến trước mặt sư phụ và quỳ xuống kính lễ người. Tôi giới thiệu họ với sư phụ, và người cúi xuống xoa đầu tỏ ý ban phước lành.

Sau đó chúng tôi cùng vào phòng khách. Nơi đây vẫn bài trí như xưa không có gì thay đổi. Sư phụ vẫn ngồi trên tấm nệm trải trên sàn gạch. Chúng tôi ngồi trên những chiếc chiếu bằng rơm trải quanh đó và tựa người vào những cái gối gòn lớn màu vàng sậm.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar và tôi trao đổi nhau bằng tiếng Bengale, mặc dù sư phụ có thể nói được tiếng Anh. Có lẽ người muốn nhắc nhở tôi về cội nguồn mà từ đó tôi đã ra đi. Tôi trình bày sơ qua với sư phụ về một số những việc đã làm. Người lắng nghe và thỉnh thoảng đưa ra một vài nhận xét, vẫn chính xác và sắc bén như xưa, mặc dù năm ấy thầy đã 81 tuổi!

Căn phòng cũ kỹ có vẻ như đã lâu không được tu sửa gì. Màu vôi trên các bức vách tường đã loang lổ nhiều nơi vì thời gian. Tôi vô cùng xúc động khi nhìn thấy bức ảnh của tôi chụp chung với các vị đại biểu quốc tế hồi dự Đại hội tôn giáo ở Boston, được treo ngay bên cạnh bức chân dung của đức thầy Lahiri Mahsaya. Và đó là những vật trang trí hầu như duy nhất trong căn phòng đơn sơ này.

Sau đó, tôi dâng lên sư phụ những món quà mà tôi đã mang về cho người từ nước Mỹ. Và chúng tôi cùng dùng cơm trưa thân mật trong nhà ăn của đạo viện. Lúc này tôi mới có thời gian chào hỏi và thăm lại các huynh đệ cũ ở nơi đây. Ai nấy đều lộ rõ vẻ vui mừng ra mặt vì sự trở về của tôi.

Chúng tôi còn lưu lại đạo viện suốt buổi chiều hôm ấy để hàn huyên tâm sự, và ra về khi mặt trời đã xế bóng. Niềm vui hội ngộ vẫn còn lâng lâng trong lòng tôi trên suốt chặng đường trở lại Calcutta.

° ° °

Trong thời gian sau đó, tôi thường xuyên đến đạo viện để thăm viếng sư phụ. Sinh hoạt thường ngày của người vẫn đều đặn như xưa. Và tôi vô cùng sung sướng được sống trở lại những giây phút bên cạnh thầy như ngày nào, khi mà tôi không phải lo nghĩ bất cứ chuyện gì vì mọi việc đều có sư phụ đứng ra lo liệu.

Một hôm, tôi nhận lời thuyết pháp tại giảng đường Albert Hall ở Calcutta. Nhân dịp này, sư phụ đồng ý đến tham dự. Người ngồi trên hàng ghế danh dự cùng với vị Quốc vương Santosh và viên thị trưởng thành phố Calcutta. Sau buổi thuyết pháp rất đông người nghe này, sư phụ không bình phẩm gì nhưng tôi nhìn thấy sự hài lòng trong ánh mắt người.

Hôm sau, người gọi tôi đến trước mặt và nói:

– Yognanda! Thầy đã lớn tuổi rồi nên sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Kể từ nay thầy muốn giao lại tất cả mọi việc cho con. Trước hết, con hãy chọn cho thầy một người phụ trách đạo viện ở Puri. Và sau đó, thầy muốn con xem xét việc tiếp quản và thay thầy điều hành mọi việc.

Tôi rưng rưng nước mắt. Quả thật tôi đã biết thế nào cũng phải đến ngày hôm nay, nhưng vẫn không sao tránh được xúc động. Sư phụ đã quá già. Đó là sự thật. Tôi không ngại việc thay thế thầy trong lúc này vì tôi biết mình đã có đủ năng lực, nhưng tôi cảm thấy một nỗi buồn vô hạn khi linh cảm thấy sự ra đi vĩnh viễn sắp đến của người thầy kính yêu.

Ngay ngày hôm sau, tôi cho gọi đến một người đệ tử ở Ranchi là Swami Sebnanda và giao phó việc điều hành đạo viện Puri.

Khi sắp đến ngày thánh lễ Kumbha Mela được cử hành tại Allahabad. Tôi nói với sư phụ là tôi muốn tham dự thánh lễ này. Sư phụ có vẻ ngần ngại, nhưng rồi người cũng không ngăn cản tôi.

Hôm đó là ngày 23 tháng 1 năm 1936. Chúng tôi đến nơi cử hành thánh lễ. Số người tham dự lên đến gần hai triệu người, từ khắp mọi nơi đổ về, làm cho thành phố trở nên huyên náo và tấp nập lạ thường. Chỉ trong những dịp như thế này người ta mới có thể dễ dàng nhận thấy được sức sống tâm linh vẫn luôn tiềm tàng trên đất nước Ấn Độ từ nhiều ngàn năm qua, và các tu sĩ bao giờ cũng được dành cho một sự kính trọng từ mọi tầng lớp xã hội. Người ta vẫn luôn tin rằng chính nhờ giới tu sĩ mà tất cả mọi người đều có thể được hưởng những sự may mắn, phúc lạcbình an.

Ngày đầu tiên, chúng tôi đi tham quan cảnh vật chung quanh thành phố. Bờ sông Hằng đông ngẹt cả người. Người ta đến đây tắm gội trong dịp này theo một niềm tin đã có từ xa xưa là sẽ rửa sạch được mọi tội lỗi. Dọc theo bờ sông, các tu sĩ ngồi xếp bằng rải rác khắp đây đó và các tín đồ sùng kính dâng lễ vật cúng dường cho họ. Còn có cả những đoàn voi, ngựa và lạc đà diễu hành ngang qua trước mặt công chúng, được trang hoàng với nhiều màu sắc rực rỡ khác nhau. Chúng tôi còn chứng kiến cả một cuộc rước lễ của những tu sĩ khỏa thân, những người chủ trương sống hoàn toàn theo tự nhiên.

Chúng tôi được dịp tiếp xúc với rất nhiều tu sĩ thuộc các dòng tu khác nhau. Họ cũng đều quy tụ về đây với mục đích tham dự thánh lễ và gặp gỡ những người đồng đạo. Một cách rất tự nhiên, họ tụ tập thành từng nhóm nhỏ ngay bên lề đường hoặc trên những bãi đất trống. Mỗi người một trang phục khác nhau nhưng tất cả đều biểu lộ nét trầm tĩnhan lạc của những người đã xuất gia tìm đạo.

Các nhà tu khổ hạnh hình thù kỳ quái cũng xuất hiện khắp nơi. Có người để mình trần và bôi đất bùn trộn với tro lên khắp người. Lại có những người khác để tóc dài đến hơn một mét! Họ quấn thành lọn rồi cột lại thành búi trên đỉnh đầu.

Những thuật sĩ làm trò uốn lượn hoặc các trò ảo thuật khác cũng tìm về đây rất đông. Họ biểu diễn ngay bên đường để giúp vui cho cuộc lễ mà không đòi hỏi một khoản thù lao nào.

Trong khung cảnh náo nhiệt ồn ào đó, thỉnh thoảng lại ngân vang tiếng chuông chùa, lấn át tất cả những âm thanh khác.

Ngày tiếp theo, chúng tôi đến thăm một số các đạo viện trong vùng. Người ta cũng đã dựng lên những túp lều tạm để làm chỗ trú ngụ cho một số tu sĩ đạo cao đức trọng.

Vị sư trưởng của một trong các đạo viện mà chúng tôi đến viếng là người đã thực hành tịnh khẩu trong chín năm qua, và ngài chỉ dùng toàn trái cây mà không động đến bất cứ loại thức ăn nào khác. Chúng tôi cũng gặp một tu sĩ mù tên là Pragla Chaksu, người nổi tiếngtinh thông tất cả kinh điển và được mọi người rất kính trọng.

Tôi cũng thực hiện một buổi thuyết pháp ngắn ngủi, và sau đó đến thăm một đạo viện khác. Tại đây, tôi gặp gỡ tu sĩ Krishnan, người có vóc dáng lực lưỡng và khuôn mặt rất khôi ngô tuấn tú. Ông này đã thuần phục được một con sư tử, lúc nào cũng nằm cạnh ông khi ông ngồi thiền. Điều đặc biệt là con sư tử không còn ăn thịt như đồng loại của nó mà chỉ ăn cơm với sữa. Con vật cũng biết sùng kính người chủ nhân đức độ của nó.

Sau đó, chúng tôi đến viếng một vị tu sĩ trẻ nhưng là một học giả nổi tiếng. Vị này tên là Kara Patri, đã có học vị tiến sĩ của Đại học Bénarès và còn được tôn xưng danh hiệu Shasti, một danh hiệu chỉ dành cho những vị bác học đã tinh thông tất cả thánh kinh của các tôn giáo.

Chúng tôi được biết vị tu sĩ này đã chọn cuộc sống lang thang không nhà từ khi còn rất trẻ. Tôi hỏi ông ta:

– Khi trời rét, ngài có mặc thêm chiếc áo nào khác hay không? 

Tu sĩ nhoẻn miệng cười:

– Tất nhiên là không, bởi vì tôi chỉ sở hữu duy nhất có một chiếc áo. Và tôi cho như thế là quá đủ.

Sau đó, ông vui vẻ kể cho tôi nghe về cuộc sống phiêu dạt không hề định cư ở bất cứ nơi đâu, với sự thanh thản vì không bao giờ bận tâm lo nghĩ bất cứ điều gì... Tôi bỗng thấy hối tiếc vì từ trước mình đã không chọn lấy một cuộc sống như ông.

Tôi lại hỏi ông:

– Thế ngài có mang theo kinh sách gì không?

– Không. Khi tôi thuyết pháp, tôi chỉ dùng trí nhớ. Những kinh điển tôi học được đều nằm trong trí nhớ của tôi.

– Thế ngài có thường bận rộn vì một công việc gì khác nữa không?

– À, thỉnh thoảng tôi có nhu cầu phải đi dạo trên bờ sông Hằng.

Tôi biết mình còn quá nhiều những nhiệm vụ đang chờ đón, không thể nghĩ đến việc thong thả dạo chơi trên bờ sông Hằng như ông, nhưng khi nghe ông nói tôi cũng chợt thấy thèm thuồng một đời sống vô tư không bận bịu.

Chúng tôi còn tiếp tục trao đổi rất nhiều về những kinh nghiệm tâm linh trên đường tu tập. Tôi lấy làm kinh ngạc xiết bao khi thấy vị tu sĩ trẻ này đã có được những trình độ tu chứng không hề thua kém những vị tu sĩ đã khổ tu lâu năm.

Khi nghe tôi kể sơ qua về công cuộc hoằng pháp ở Hoa Kỳ, ông tỏ vẻ khâm phục và nói:

– Thật ra những người như tôi dù có muốn cũng không có khả năng làm được những việc như thế. Đại đức quả là đã đóng góp to lớn vào việc truyền bá đạo pháp.

Khi chúng tôi chia tay ra về, tôi nói với ông Wright:

– Người ấy là một ông vua không cần ngai vàng.

Buổi chiều, chúng tôi dùng cơm trên một chiếc chiếu trải trên mặt đất, dưới bầu trời trong xanh với những vì sao mọc sớm lung linh sáng ở phương xa.

Chúng tôi tiếp tục lưu lại nơi hành lễ trong hai ngày nữa rồi mới lên đường đi Agra, dọc theo con sông Jumma. Sau đó tôi đến viếng lăng mộ cổ Taj Mahal, và cuối cùng ghé đến thăm tu sĩ Keshab ở đạo viện Brindaban.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17082)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38632)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21909)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 21992)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69774)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6871)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38710)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 43966)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44059)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42878)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44392)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23064)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39182)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21724)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42368)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35579)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46478)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30089)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30785)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26180)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20335)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25534)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18450)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17100)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40747)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21704)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25886)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41406)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24886)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23763)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15049)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19952)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37803)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19077)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17679)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23517)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36277)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40344)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19474)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21692)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46148)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35894)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28562)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32159)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26260)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33387)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24065)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24797)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54484)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant