Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7842)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG SÁU: MỘT CHUYẾN ĐI LÊN MIỀN BẮC

II.

Do nhiều bạn đạo kể chuyện và sau khi đã trao đổi quan niệm bằng cách giao dịch thư từ với nhóm Arya Samaj, một chi phái Ấn Giáo tiến bộ, tôi được biết đạo sư (Swami) Dynand Saraswati như một nhà bác học Phạn ngữ (Pandit) và một nhà cải cách tôn giáo, đang lãnh đạo một phong trào tâm linh rất mạnh mẽ mệnh danh là tổ chức Arya Samaj, nhằm mục đích phục hưng tôn giáo Phệ-đà (Veda) thuần túy cổ xưa của Ấn Độ.

Khi chúng tôi đến Agra, chúng tôi được người đại diện địa phương của đạo sư Dynand Saraswati đến viếng thăm và trao đổi với chúng tôi nhiều điều về vị lãnh đạo tôn giáo này. Sự trình bày của ông ta rất thỏa đáng nên chúng tôi quyết định đi Saharanpore để gặp vị Swami khi ngài đi hành hương từ Hardwar trở về.

Tại Saharanpore, những tín hữu của chi phái Arya Samaj nghênh tiếp chúng tôi rất nồng hậu với những quà tặng bánh trái và hoa quả. Nhưng sự vui thích của chúng tôi đã có phần giảm bớt do sự có mặt của mấy tên mật vụ. Họ theo dõi mọi sự di chuyển của chúng tôi, khám xét thư từ, đọc điện tín của chúng tôi, và làm cho chúng tôicảm tưởng như mình đang phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngành an ninh!

Trụ sở chi phái Samaj dành cho chúng tôi một cuộc tiếp tân long trọng và một bữa tiệc theo phong tục bản xứ. Chúng tôi ngồi ăn dưới đất với bàn tay mặt rửa sạch, bốc thức ăn đựng trong những cái đĩa kết bằng lá cây.

Đạo sư (Swami) về đến nơi vào sáng sớm ngày hôm sau. Bạn Mulji và tôi cùng đến để chào mừng. Tôi vô cùng cảm kích về tác phong, dáng điệu, giọng nói ấm áp cũng như những cử chỉ lịch sựcốt cách tôn nghiêm cao quí của ông. Đạo sư nắm tay tôi, đưa tôi đến một hàng ba rộng rãi lộ thiên, cho người đem đến một ghế dài và mời tôi ngồi bên cạnh người.

Sau khi đã trao đổi với nhau những lời chúc mừng, chúng tôi chia tay từ giã, và độ một giờ sau đó, đạo sư đích thân đến nơi quán trọ của chúng tôi để thăm xã giao bà Blavatsky.

Trong cuộc nói chuyện dài tiếp theo sau đó, đạo sư cho biết quan điểm của ông về các vấn đề Thượng đế, Giải thoát và Niết-bàn. Chúng tôi nhận thấy những điều này hầu như hoàn toàn phù hợp với quan niệm của chúng tôi.

Hôm sau, chúng tôi cùng đạo sư đáp chuyến xe lửa đi Meerut. Khi đến nơi, chúng tôi được đưa đến ngôi biệt thự của ông Sheonarain, một nhà thầu giàu có làm việc cho Chính phủ. Ông này là một tín hữu phái Samaj, đã tình nguyện cung ứng ngôi nhà của ông cho chúng tôi sử dụng.

Chiều hôm sau, vào lúc sáu giờ rưỡi chúng tôi tham dự một buổi hội họp đông đảo của môn phái Arya Samaj, được tổ chức ở một sân rộng lộ thiên, giữa những ngôi nhà lầu bao quanh. Ở cuối sân có một bục xây bằng gạch, trên có trải nệm và thảm Ấn Độ. Đạo sư Swami ngồi xếp bằng trên tấm thảm, dựa lưng vào một cái gối tròn và dày. Loại gối này rất thông dụng ở các xứ phương Đông.

Tác phong trầm tĩnh, oai nghi, đạo sư nổi bật giữa đám đông, và trong một bầu không khí im lặng hoàn toàn, toàn thể hội trường đều lắng tai nghe ông thuyết pháp.

Sau khi phái đoàn chúng tôi được đưa đến chỗ ngồi đã sắp đặt sẵn, ngài Swami im lặng tọa thiền trong vài phút, kế đó ông ngẩng mặt lên trời, rồi với một giọng trầm ấm, ngân vang những thánh ngữ: “AUM, AUM! Shantih, Shantih, Shantih!” (ngụ ý: Cầu cho muôn loài được bình an), và khi những âm thanh vang dội đã tan dần, ông mới bắt đầu một thời pháp về đề tài “Cầu nguyện”.

Ông định nghĩa rằng cầu nguyện tức là làm việc. Cầu nguyện không phải là thốt lên những lời lẽ vô vị trên đầu môi chót lưỡi; không phải là nịnh hót hay ca tụng Thượng đế, vì như thế sẽ không đem lại một kết quả nào. Có lần, ông nghe một tín đồ phái Brahmo Samaj bỏ phí mất hai giờ đồng hồ chỉ để lặp đi lặp lại cả ngàn lần những lời này: “Ôi! Thượng đế, Ngài là từ bicông bằng vô lượng vô biên!” Làm như vậy có ích gì? Ông nói, có người nói chuyện với Thượng đế như người ta nói chuyện với kẻ tôi tớ; cơ hồ như họ có quyền áp đặt, sai phái! Thật là rồ dại, ngu ngốc. Người nào muốn cầu nguyệnhiệu quả, hãy làm việc, làm việc và làm việc. Tất cả những gì ở ngoài khả năng của mình phải được tìm kiếm bằng sự công phu thiền định và phát triển những năng lực tâm linh...

Đạo sư tiếp tục thuyết giảng một cách hùng biện, giọng nói truyền cảm, ngôn ngữ dễ dàng lưu loát như giòng nước chảy. Trước khi ông kết thúc, ánh trăng bạc chiếu vào mặt tiền ngôi nhà trước mặt chúng tôi trong khi chúng tôi ngồi ẩn khuất trong bóng tối, dưới nền trời xanh biếc một màu thăm thẳm. Một tia trăng sáng rọi vào bối cảnh phía sau lưng đạo sư, giống như một bức màn bằng bạc đánh bóng, làm nổi bật thân hình của ông với những nét thanh tú như một pho tượng đồng.

Ngày hôm sau, đến lượt tôi thuyết trình. Buổi thuyết trình được tổ chức trong một lều vải khổng lồ được dựng lên trong khuôn viên nhà của ông Sheonarain. Sàn gạch được phủ lên bằng những tấm nệm vải cứng và dày để làm chỗ ngồi, bên trên có trải những tấm thảm Ấn Độ và Ba Tư. Ngoài một cái bàn riêng cho tôi và vài chiếc ghế cho các thính giả người Âu, kỳ dư là thính giả bản xứ, kể cả đạo sư Swami, đều ngồi xếp bằng trên sàn gạch. Có vài vị quan chức người Anh tham dự, lại có cả những người mật vụ hôm trước, lần này với bộ râu mép cạo sạch nhẵn, hình như với mục đích hóa trang!

Cuộc nói chuyện của tôi do Mulji làm thông dịch, trình bày những lợi ích hỗ tươngthể đạt được bằng cách phối hợp những quyền lợi và khả năng thiên phú của cả hai chủng tộc Đông phươngTây phương.

Ngày hôm sau, vị Swami kể cho chúng tôi nghe nhiều sự việc lý thú về những kinh nghiệm bản thân của ông và của những đạo sĩ Yoga khác trong rừng già. Ông đã từng sống gần như khỏa thân (chỉ đóng một cái khố rất nhỏ trên người) suốt bảy năm trong rừng rậm, ngủ trên mặt đất hoặc trên tảng đá, ăn toàn hoa quả, rễ cây và uống nước suối, cho đến khi thể xác ông hoàn toàn không còn cảm giác đối với tiết trời nóng, lạnh, vết thương, xây xát hay lửa bỏng. Ông không hề bị các loài độc xà, ác thú làm hại. Có lần ông chạm trán với một con gấu đói trên đường đi, con gấu nhảy chồm lên định vồ lấy ông, nhưng ông đưa tay khoát nó đi ra chỗ khác, và đường đi được giải tỏa. Một vị siêu nhân mà ông đã gặp tại núi Abu, tên là Bhavani Gihr, có thể uống cạn một chai thuốc độc mà chỉ một giọt thôi cũng đủ giết chết một người thường. Vị này có thể nhịn ăn suốt bốn mươi ngày một cách dễ dàng và thực hiện được nhiều hiện tượng lạ lùng khác.

Chiều hôm đó, có một cuộc hội họp khác của các tín hữu Arya Samaj cũng đông đảo như lần trước để gặp gỡ chúng tôi, và một cuộc thảo luận đã diễn ra giữa đạo sư (Swami) và vị hiệu trưởng của trường trung học địa phương về những luận cứ chứng minh cho sự hiện diện của Thượng đế.

Ngày hôm sau, chúng tôi sửa soạn lên đường trở về Bombay, và được vị Swami cùng với một số đông tín hữu của môn phái ông tiễn đưa ra tận nhà ga. Họ tung hoa hồng vào người chúng tôi và hô to khẩu hiệu “Namasté” để tiễn biệt khi đoàn xe lửa lăn bánh.

Sau những ngày và đêm nóng bức trên chuyến xe lửa với những tiếng động ồn ào, bụi bặm, thiếu tiện nghi, chúng tôi đã đến Bombay. Trước khi kiểm soát lại hành lý, bà Blavatsky đi ngay đến trước mặt tên mật vụ, và ngay trên sân ga, bà cho hắn ta một bài học đích đáng. Với một giọng nhạo báng chua cay, bà thốt ra lời khen ngợi y về những thành quả lớn lao mà y hẳn đã gặt hái được trong chuyến đi đắt tiền trên toa xe hạng nhất, và nhờ y chuyển đạt những lời chúc mừngcảm ơn nồng hậu của bà lên thượng cấp của y! Tên mật vụ thẹn đỏ mặt, lúng túng ngập ngừng nói không ra lời, và chúng tôi bước đi, bỏ y lại đó một cách trơ trẽn.

Kế đó, thay vì đi thẳng về nhà để tắm rửa và ăn sáng, chúng tôi gọi xe đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ và yêu cầu viên lãnh sự gửi một thông điệp cực lực phản kháng viên Cảnh sát trưởng về cách đối xử có tính cách nhục mạ của y đối với những công dân Mỹ vô tội.

Mọi sinh hoạt của chúng tôi vẫn trôi chảy một cách êm đềm. Những cảnh tượng lạ mắt của nếp sinh hoạt bản xứ diễn ra trong đời sống hằng ngày, càng ngày càng gây ấn tượng sâu xa hơn trong tâm hồn chúng tôi. Phạm vi giao tiếp của chúng tôi với người bản xứ cũng ngày càng mở rộng thêm, nhưng chỉ trừ một vài trường hợp lẻ loi rất hiếm, còn nói chung thì chúng tôi không tiếp xúc với người Âu. Việc họ có ưa thích chúng tôi hay không cũng chẳng quan hệ gì; sự thật là họ không thể dạy chúng tôi những gì mà chúng tôi muốn biết. Nếp sống thường ngày và những công việc bận rộn của họ không có chút thú vị gì đối với chúng tôi.

Sau khi tôi gửi một bức thư phản kháng cho chính quyền địa phương tỉnh Bombay qua trung gian của ông Franham, lãnh sự Hoa Kỳ, tôi được một bức thư trả lời rằng họ không hề có thái độ cố ý khiếm nhã trong việc cho nhân viên mật vụ theo dõi mọi hành động của chúng tôi. Về sau, khi đến Simla, tôi được các viên chức cao cấp trong phủ Toàn quyền của vị Phó vương Anh cho biết rằng họ rất bực mình khi thấy công tác do thám được thi hành một cách quá ư lộ liễuvụng về đến nỗi đã làm cho chúng tôi chú ý. Họ nói thêm rằng, việc theo dõi chúng tôi chỉ là chuyện thông thường, vì luật lệ Nhà nước ở Ấn Độ qui định phải theo dõi tất cả những người ngoại quốc nào có vẻ thân thiện đặc biệt với người bản xứ và tránh né sự giao thiệp với người của giai cấp thống trị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19812)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20891)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19219)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40463)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21217)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41000)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24063)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23015)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17782)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26878)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20684)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33572)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20931)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28821)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12653)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25198)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19105)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17478)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25687)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18968)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18937)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28964)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18867)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33239)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38302)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31173)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18176)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24456)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19415)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17859)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22951)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17989)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32096)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17341)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17381)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16041)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18543)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20739)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18018)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20058)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14816)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20854)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15044)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15738)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12914)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14471)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14883)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29322)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12731)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14485)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant