Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8273)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: THỊ TRẤN SIMLA

I.

Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một triền núi, nhìn xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nhìn thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đất nước rộng lớn này.

Sáng hôm sau, hành động đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà Blavatsky về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hãy xem cuộc viếng thăm này như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây đừng nói gì đến Hội Thông thiên học, cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị Chính phủ theo dõitình nghigián điệp của Nga. Nói tóm lại, hãy quên đi việc riêng của mình, mà tốt hơn hãy đạt kết quả bằng cách gây cảm tình trong các giới quen biết tại đây, những giới này sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lýchúng ta phải chịu.

Lẽ tất nhiên, bà Blavatsky hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà giậm chân, đi tới đi lui trong phòng và nói một mình cơ hồ như tôi là nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà.

Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng vì thấy rằng bà không chịu tự chủ mà đã bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng. Ông nói rằng người Anh luôn xem đức tính tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thật sự. Bà bạn trung kiên của chúng tôi, phu nhân Gordon, là vị khách đầu tiên tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của Chính phủ ông Sinnett cố tình mời đến nhà để gặp bà Blavatsky.

Trong tập nhật ký của tôi có chép rằng bà bắt đầu thực hiện những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được xem như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà Blavatsky, chẳng hạn như phát động tiếng gõ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí, v.v... Thậm chí, bà còn làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.

Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị Chính phủ ghét và theo dõinghi ngờgián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi này là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lý đó để cho công việc của chúng tôiẤn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi phải đợi cho đến khi chúng tôi đã đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lãnh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ý đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.

Khi nhận thấy đã đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ trong Chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bản sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. Vì tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề này, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:

“Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880

Kính gửi: Ông Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ.

Thưa ông Bộ Trưởng,

Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ Bảy vừa qua về Hội Thông thiên học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của chính ông, tôi xin trình bày lại vấn đề bằng văn thư.

1. Hội Thông thiên học được tổ chức tại New York năm 1875 bởi một số học giả khoa Đông phương học và Tâm linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lý và khoa học cổ của Á châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bản xứ.

2. Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ý định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.

3. Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội là bà H. P. Blavatsky (một công dân Nga đã nhập quốc tịch Mỹ[4] và là một học giả khoa Tâm linh học Á châu) và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đã đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. Vì lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là người Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trương tại Mỹ, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ. Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) do Ngoại trưởng Evarts cấp, với một chứng thư của Bộ Ngoại giao Mỹ giới thiệu tôi cho các vị đại sứ và lãnh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đã được lưu trữ tại Văn khố của Chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gửi đến Bộ Ngoại vụ Ấn Độ trong nay mai.

4. Những báo cáo sai lầm, do không hiểu biết rõ hay có ác ý, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ đã được đệ trình lên Chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dõi của nhân viên an ninh, nhưng công việc này đã được thi hành một cách vụng về đến nỗi làm cho cả nước đều chú ý, và người dân bản xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ. Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đãi hoàn toàn không có lý do chính đáng, do hậu quả hành động của Chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.

5. Bất cứ người nào đã từng có dịp biết rõ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đã tạo một ảnh hưởng lành mạnhbảo thủ đối với dân bản xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gửi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy. Nếu Chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đã vô tình gây cho chúng tôi, và phục hồi trở lại thanh danhchúng tôi vẫn có trước khi cái nhãn hiệu “âm mưu chính trị” bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đã kể trên, thì chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà còn cho cả nền văn hóa và khoa học Đông phương.

Nhưng nếu lệnh theo dõi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, vì sự nghi ngờ đã âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của Chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một hình ảnh của tai họa. Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại vụ ra lệnh cho các cấp trực thuộc hãy thông báo cho từng địa phương biết rõ sự kiện này là chúng tôi không còn bị nghi ngờ, và xét vì công việc của chúng tôi làm là vì sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận. Và điều này, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lýluật pháp công minh của Anh quốc.

Trân trọng kính thư,

Ký tên:

Đại tá Henry S. Olcott.

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

Sự trả lời của Chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa mãn. Tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lệnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dõi và dò xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.

Trong một bức thư thứ nhì, tôi đã lưu ý Bộ Ngoại vụ về vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đã đạt được như ý muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đã được tự do.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26478)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 19888)
Thực hành Phật giáo là tiến hành một cuộc chiến đấu giữa những thế lực tiêu cựctích cực trong tâm bạn. Thiền giả nỗ lực làm tiêu mòn điều tiêu cực...
(Xem: 18115)
Ðức Phật khuyên chúng ta nên thường xuyên suy ngẫm về cái chết, hàng ngày hay vào bất cứ lúc nào. Nó sẽ khơi dậy trong chúng ta sự tỉnh thứcý thức cấp bách...
(Xem: 32663)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 18731)
Theo hiểu biết cơ bản của Phật giáo, tâm hồn về bản chất luôn mang tính sáng suốtthông tuệ. Thế nên, những rắc rối về tình cảm không hề tồn tại trong bản chất cơ bản của tâm hồn...
(Xem: 31461)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32400)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 20013)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 26177)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 20195)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 23700)
Tôi tự cho rằng tôi có thực hay đó chỉ là một ý nghĩ về tôi do tôi tưởng nghĩ về tôi hoặc một ý nghĩ hay một hình ảnh về tôi do kẻ khác hay những kẻ khác tưởng nghĩ về tôi?
(Xem: 23779)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 15040)
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch)...
(Xem: 14971)
Nhìn thấy rõ tướng vô thường và khổ đau đang bủa xuống quanh cuộc sống, đêm rằm tháng hai âm lịch, Thái tử lên ngựa Kiền-trắc (Kanthaka) cùng với người hầu cận...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant