Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7960)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: THỊ TRẤN SIMLA

II.

Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miếu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chữ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chữ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó thì tôi cũng không biết.

Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà Blavatsky nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều gì không? Bà Sinnett nói: “Tôi muốn có một thông điệp của chân sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.”

Bà Blavatsky bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành hình ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, xòe cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất. Thay vì nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thư bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc nãy, cũng xếp thành hình ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do chân sư K. H. ký tên bằng chữ Tây Tạng.

Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác. Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đình Sinnett đã sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đã gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi thì một người khách đến thình lình, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người giúp việc đã xách các giỏ mây đi trước, còn chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường mòn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dãy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rượi.

Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên bãi cỏ xanh, trong khi những người giúp việc dọn chỗ trên bãi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhóm lửa nấu nước pha trà, thì thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett và thưa với bà rằng còn thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào phút chót. Bà nói với một giọng bực mình:

– Anh thật là lơ đễnh, sao không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người?

Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:

– Hình như trong các bạn chắc phải có hai người uống chung một cốc.

Lúc ấy tôi mới nói rằng, trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đã giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm mới nói đùa với bà Blavatsky:

– Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà thực hiện phép mầu.

Tất cả chúng tôi bất giác cười lớn vì câu nói đùa bỡn vô lý đó, nhưng khi thấy bà Blavatsky có vẻ sẵn lòng chấp nhận thì mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà làm ngay lập tức. Những người nằm trên bãi cỏ cũng đã đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà Blavatsky nói rằng để làm cái việc này, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.

Ông này tỏ vẻ bằng lòng. Bà yêu cầu ông đemtheo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà Blavatsky nhìn chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói: “Ông hãy đào ở chỗ này.”

Ông khách ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Thì ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong lòng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra thì thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia.

Hãy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiênxúc động của nhóm người đứng xem chung quanh! Bà Blavatsky bảo ông kia hãy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông này đã cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều này làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất vì ngạc nhiên và khoái trá.

Khi cuộc đi chơi kết thúcchúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, thì thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn còn nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà Blavatsky tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.

Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng này có thể đã được chôn dấu từ trước để lòe bịp chúng tôi, thì sự thật hiển nhiên đã đính chính ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nhìn thấy rõ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong lòng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như mạng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách mạnh mẽ mới lôi bộ chén dĩa kia ra được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu gì khả nghi, và nếu có ai đã đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, thì mặt đất bị đào xới đã không thể nào thoát khỏi cái nhìn nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông thiếu tá ra tay làm việc.

Sau buổi ăn trưa, bà Blavatsky còn làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn lòng gia nhập Hội Thông thiên học nếu bà Blavatsky có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đã hoàn tất mọi thủ tục. Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hãy đến đó xem có gì không, vì cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín. Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước. Nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của ông và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!

Điều này làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và vì bà Blavatsky đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà Blavatsky đã có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đã gia nhập Hội Thông thiên học, và biểu lộ một lòng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.

Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết trình về đề tài: “Thần linh học và Thông thiên học” tại hội trường của Viện Phụng sự hợp nhất (United Service Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla.

Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó vương Anh là Lord Ripon tại Dinh Chính phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với Chính phủ Anh Ấn.

Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách. Bà Blavatsky vẫn tiếp tục thực hiện các hiện tượng huyền bí đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự “trợ giúp của Quỷ vương (Satan)”. Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đã không ngần ngạinói thẳng với bà như vậy.

Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên chân sư K. H. Đó là bước khởi đầu một cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với chân sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.

Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn còn tiếp nối những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố. Trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà Blavatsky đã làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm.

Ngày hôm đó, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại phòng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc đi-văng. Bà Sinnett cầm tay bà Blavatsky để ngắm nhìn đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giàu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy. Đó là một hạt kim cương loại rất hiếm và quý giá, long lanh chớp sáng và chiếu ra những tia sáng chói lấp lánh.

Bà Sinnett đã có lần yêu cầu bà Blavatsky dùng phép thuật tạo thêm cho bà một bản sao của hạt kim cương ấy, nhưng bà này không hứa gì cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm. Bà Blavatsky dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hạt đá quý độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hạt kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh là một hạt kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hạt của bà, nhưng cũng là một hạt kim cương rất đẹp. Bà liền tặng hạt kim cương ấy cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn còn là sở hữu của bà bạn quí mến của chúng tôi.

Buổi cơm tối hôm đó, bà Blavatsky không ăn gì cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa thì bà ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay và chà xát thật mạnh thì thấy có hai hạt ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa.

Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quý này cũng rất thường xảy ra với Stainton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển hồi ký trước đây. Đôi khi, các loại đá quý nhỏ rơi xuống như mưa trên người ông ta và rơi khắp phòng, có khi là vài viên ngọc thạch lớn. Người Đông phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây phương gọi là Thổ tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.

Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10 mà ông gọi là “hiện tượng cái gối”. Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi. Ông Sinnett đang trông đợi một thông điệp trả lời bức thư ông gửi cho một vị chân sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó. Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà Blavatsky làm xuất hiện một vật gì đó bằng phép mầu.

Bà Blavatsky hỏi: “Các ông muốn nhận được vậy ấy ở đâu khác ngoài trên một cành cây? Không nên làm cho sự việc trở thành nhàm chán vì cứ lặp lại những chuyện cũ.”

Mọi người thăm dò ý kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ý yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy.

Bà Blavatsky liền nói: “Được rồi, hãy mở nó ra xem có vật gì ở trong không.”

Ông Sinnett liền lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dày và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đã trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc. Tuy nhiên, sau cùng thì cái bao ngoài đã bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nhì chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc.

Khi cái gối trong đã bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, mò trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của chân sư K. H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà Blavatsky; còn cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành bà còn để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi muốn để cho độc giả hãy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34320)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16856)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22960)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13046)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21945)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22173)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14861)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23565)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24087)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23620)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17138)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19342)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27035)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14412)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13832)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22675)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14722)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17351)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12658)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13855)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10402)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14670)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17195)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12540)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12689)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10352)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28714)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10687)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11127)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16865)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15763)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13332)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12547)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11351)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13023)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19303)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12242)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28580)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10038)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21504)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12785)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17812)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26206)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11700)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10845)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22735)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12031)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10597)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11384)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11515)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant