Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Bồ tát Thế Thân

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10059)
Tiết 2: Bồ tát Thế Thân

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG X
PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA HỆ VÔ TRƯỚC


TIẾT II. BỒ TÁT THẾ THÂN

- Uyên nguyên của Duy thức học.

Duy thức học từ Di Lặc đến Vô Trước thì hoàn thành và lấy thức Nhất thiết chủng làm gốc, cho rằng Duy thức học là sự biến hiện của chủng tử thức. Song Duy thức Tam thập tụng của Thế Thân, ông lấy ba loại phân biệt thức làm gốc, cho rằng Duy Thức học là sự biến hiện của phân biệt thức. Hai ngài Di LặcVô Trước thì xuất phát từ “Bản địa phần” của luận Du Già Sư Ðịa. Ấy là dùng cái nghĩa “bất dị” của chủng tử bất nhất bất dị làm căn cứ. Ngài Thế Thân thì lấy “Nhiếp quyết trạch phần” của luận Du Già Sư Ðịa, ấy là dùng cái nghĩa “bất nhất” của chủng tử thức bất nhất bất dị làm căn cứ. Ðây là sự phân lưu của hai dòng lớn cùng đồng nhất môn Duy thức học. Về sau, phần nhiều các học giả Duy thức đều dùng thuyết của Thế Thân coi Thế Thân mới là người tập đại thành môn Duy thức học. Tại Trung Quốc có một dòng Duy thức học thuộc dòng của ngài Vô Trước, dòng này là Nhiếp Luận Tông thuộc học phái Nhiếp Luận.

Vì vậy, trước khi nói về ngài Thế Thân, xin giới thiệu Uyên nguyên Duy thức học. Ngoài việc A Lại Da đã đề cập ở chương chín, và tiết ba trong kinh Giải Thâm Mật. Mỗi khi nói đến tư tưởng Duy thức thì phải căn cứ vào tư tưởng của Bộ phái. Nay xin giới thiệutham khảo “Duy thức sử quan và Triết học Duy thức” của pháp sư Pháp Chiên, thiên thứ nhất ở chương bốn và năm, lấy đó làm tư liệu và phân ra như sau:

1. Tam Pháp Ấn là căn nguyên Duy thức học:

Yếu nghĩa trong thánh điển A Hàm không ngoài Tam Pháp Ấn, Tam Pháp Ấn đó là:

blank

Niết bàn tịch tịnh là kết quả của tam quán, tuy có thể gọi là Tứ Pháp ấn, nhưng kỳ thực chỉ có Tam Pháp Ấn. Ðem “chư hành vô thường” sánh với Duy thức học, thì đó là các pháp được biến hiện bởi do sự hư vọng của tâm và tâm sở pháp. “Chư pháp vô ngã” đấy là nghĩa của nhân vô ngã, pháp vô ngã được hiển lộ do bởi nhân khôngpháp không. Kinh A Hàm tuy không phân chia nhân - pháp làm hai nghĩa, nhưng thực thì kinh đã hàm cả hai nghĩa này. “hữu lậu giai khổ, Niết bàn tịch tịnh”, đấy là phát huy thắng nghĩa Ðại thừa; vô trụ Niết bàn của Ðại thừa được khai xuất từ Niết bàn tịch tịnh.

2. Uẩn Xứ Giới là căn nguyên Duy thức:

Ðể giải thích ý nghĩa Tam pháp ấn, thánh điển A Hàmngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới. Ðạo lý của pháp tướng Duy thức tựu trung cũng kiến lập trên đạo lý này.

3. Duy tâm luận trong bốn bộ kinh A Hàm:

Chẳng hạn như thuyết sinh tử luân hồi, thuyết nghiệp cảm duyên khởi, tất cả đều lấy tâm làm chủ thể tạo tác.

4. Công dụng của Duy thức học là xiển dương và giải thích kinh A Hàm:

Luận Bách pháp giải thích cái nghĩa “chư pháp vô ngã” của kinh A Hàm; Ngũ Uẩn luận là giải rõ cái nghĩa ngũ uẩn trong kinh A Hàm; Ðại thừa Tập Luận và Nhiếp Trạch phần, Bản Ðịa phần hai quyển sau, Nhiếp Dị Môn Phần và Nhiếp Sự Phần v.v... hai mươi quyển của luận Du Già Sư Ðịa, đại bộ phận là để giải thích những ý trong kinh Tạp A Hàm.

- Thế Thân và các trước tác của ông.

Thế thân còn có tên là pháp sư Bà Tẩu Ðàn Ðậu, ông là hậu duệ của ngài Vô Trước. Niên đại ông sống ước khoảng từ năm 320 đến năm 400 tây lịch, theo những ghi chú trong bộ “Thế thân Truyện”. Thì ban đầu ông giả vờ như mắc chứng phong cuồng để lén vào nước Kế Tân và học Hữu Bộ Luận, trong mười hai năm với một số lần nghe luận Ðại Tỳ Bà Sa. Sau khi nắm rõ văn nghĩa của toàn luận, ông về lại quê nhà và viết bộ luận A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá (gọi giản gọn là luận Cu Xá) với ba mươi quyển, tuy là để thuyết minh giáo nghĩa của hữu Bộ, nhưng rất nhiều chỗ ông lại dùng giáo nghĩa của Kinh Bộ để bổ sung cho giáo nghĩa Hữu Bộ. Ðiều này đã giới thiệu sơ lược ở chương sáu của sách này.

Khi chưa đi vào Ðại thừa Phật giáo, có thuyết nói Thế Thân viết rất nhiều bộ luận mang dấu ấn Tiểu thừa, mà luận Cu Xá là tác phẩm đại biểu trong số các luận của ông, đồng thời ông còn viết Thất Thập Chơn Thực Luận rất nổi tiếng. Thế Thân dùng luận này công phá bộ luận “Tăng Phật Luận” của phái Số Luận ngoại đạo. Nhân đấy ông được vị quốc vương nước A Du Xà (Ayodhyà - còn dịch âm Hán là A Thâu Ðà) tên là Tất Kha La Ma A Dật Ða (Vikramàditya) thường cho Tam lạc sa kim. Thế Thân chia số vàng thưởng làm ba phần, mỗi phần được dùng để xây một ngôi chùa. Sau đó, ông nhận sự quy y của vua Bà La Dật Ðể Dã (Bàlàdiya - Tân Nhật); nhà vua cũng lệnh cho thái tử của mình qui y với Thế Thân, và có nhiều vương phi xin xuất gia làm đệ tử ông. Về sau, khi thái tử lên nối ngôi, nhà vua cùng mẫu hậu đồng mới thỉnh Thế Thân lưu ngụ lại nước A Du Xà.

Lúc tuổi về già, Ngài Vô Trước cứ ngại là Thế Thân mãi lo học Tiểu thừa để phá Ðại thừa, nên lòng không yên, Vô Trước bèn sai người đến từ nước Phú Lâu Sa Phu La (nghĩa là Trượng Phu thành) ở bắc Ấn Ðộ đi đến nước A Thầu Xà để mời Thế Thân hồi hương, và nói với Thế Thân là ông đang bệnh nặng. Sau khi anh em gặp nhau Vô Trước nói với Thế Thân: “Anh đang mang bệnh nặng, em vẫn sống khỏe, em không tin Ðại thừa lại thường sinh tâm bài báng, gây ác nghiệp, như thế em sẽ vĩnh viễn chìm sâu vào đường ác”. Nhân đấy, Thế Thân bỏ Tiểu thừa qui về Ðại thừa. Sau này khi Vô Trước Viên tịch, Thế Thân viết rất nhiều bộ luận Ðại thừa để giải thích các kinh như Hoa Nghiêm Kinh, Niết Bàn Kinh, Pháp Hoa Kinh, Bát Nhã Kinh, Duy Ma Kinh, Thắng Man Kinh v.v.. Lại nữa, ông là người tạo Duy Thức Luận” và nhiều luận Ðại thừa khác. Năm tám mươi tuổi ông thị tịch tại nước A Thầu Xà. Ðể nói về ông có lời bình rằng: “ông tuy sinh ở cõi phàm, nhưng lý thực khó nghĩ bàn”. Trên đây là tham khảo bộ “Bà Tẩu Bàn Ðậu Pháp Sư Truyện(8).

Theo bộ “Phật Giáo Sử” của Bổ Ðốn - người Tây Tạng, thì Thế Thân ở nơi Vô Trước mà thấu hiểu Thập Ðịa Kinh và A Sai Mạt Kinh, rồi mới qui hướng Ðại thừa. Sau đó ông đến Ni Bạc Nhĩ để giáo hóa phá giới tăng là Tân Ðà (Handa). Cũng theo Bổ Ðốn, Thế Thân đã từng nghiên cứu Thập Vạn Tụng Bát Nhã.

Thế Thân là người trước tác hết sức phong phú. Truyền thuyết kể rằng ông sáng tác đến năm trăm bộ luận. Tiểu thừa, và năm trăm bộ luận Ðại thừa. Do đó, ông được người đời tôn xưng là “Thiên bộ luận sư”. Số luận thư của ông hiện còn lưu truyền. Theo Nhật Bản Ðại Chánh Tân Tu Tạng có hai mươi bảy bộ. Tây Tạng Ðại Tạng Kinh cho là có ba mươi bộ. Trong số các luận thư này có mười một bộ trọng yếu. Xin liệt kê như sau:

1. Luận A Tỳ Ðàm Cu Xá - Ba mươi quyển. Bản Hán dịch của Huyền Trang. Chơn Ðế biệt dịch ra Hán văn với tên gọi A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Thích Luận - hai mươi hai quyển.

2. Duy thức Tam Thập Tụng - một quyển. Ðược Huyền Trang dịch ra Hán văn.

3. Duy Thức Nhị Thập Tụng - một quyển. Bản Hán dịch là của Huyền Trang, Chơn Ðế biệt dịch ra Hán văn với tựa luận là Ðại thừa Duy Thức Luận - một quyển, và Bát Nhã Lưu Chi cũng dịch ra Hán văn với tựa đề Duy Thức Luận - một quyển.

4. Phật Tánh Luận - bốn quyển. Bản Hán dịch của Chơn Ðế.

5. Nhiếp Ðại Thừa Thích Luận - mười quyển. Bản Hán dịch là của Huyền Trang. Chơn Ðế biệt dịch ra Hán văn với tựa đề Nhiếp Ðại Thừa Thích - mười lăm quyển. Bản Hán dịch của Ðạt Ma Cấp Ða cũng với tựa Nhiếp Ðại thừa Luận Thích - mười quyển.

6. Biện Trung Biên Luận - ba quyển. Bản Hán dịch là của Huyền Trang, riêng Chơn đế dịch với tựa đề Trung Biên Phân Biệt Luận - hai quyển.

7. Thập Ðịa Kinh Luận - mười hai quyển. Bản dịch Hán văn của Bồ Ðề Lưu Chi.

8. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Bà Ðề Xá - hai quyển. Do Bồ Ðề Lưu Chi cùng Ðàm Lâm v.v... dịch ra Hán văn.

9. Niết Bàn Kinh Bản Hữu Kim Vô Kệ Luận - một quyển. Bản Hán dịch của Chơn Ðế.

10. Niết Bàn Luận - một quyển. Bản Hán văn là của Ðạt Ma Bồ Ðề.

Ngoài những luận thư vừa nêu. Thế Thân còn sáng tác nhiều luận thư khác như: Ngũ Uẩn Luận, Bách Pháp Minh Môn Luận, Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn Kinh Luận, Như Thật Luận, Kim Cang Bát Nhã Luận v.v...

- Tư tưởng Thế Thân.

Ma Ha Chỉ Quán, quyển thứ bảy xưng tán Long Thọ là vị “Tác Thiên Bộ Luận”; trong khi Bách Luận Tự Sớ thì ca tụng Thế Thân là “Thiên Bộ Luận Chủ”. Về mặt lịch sử của Phật giáo Ấn Ðộ, thì đây là hai vị “cự nhân”. Chính xác là hai vị có nhiều chỗ giống nhau thứ nhất; từng trải rất rộng, đó là điểm giống nhau thứ hai, và giống nhau ở điểm thứ ba là tư tưởng “bàng tạp” (trước khác sau). Còn như luận đến những vị tập đại thành Ðại thừa Phật giáo, thì Thế Thân sánh với Long Thọ càng có phần tương đương. So sánh như thế không có gì là sai! Thiết tưởng nếu muốn chỉnh lý tư tưởng của Thế Thân thành một hệ thống nhất quán không phải là việc dễ làm.

Thế Thân người có hai lập trường cả về Tiểu thừa lẫn Ðại thừa. Riêng phạm vi Ðại thừa, lại phải chia ra nhiều lập trường khác nhau. Thế Thân đối với các kinh như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết bàn, Bát Nhã, Duy Ma, A Di Ðà v.v.. ông đều có sự chú thích. Ông cũng chú thích tư tưởng về A Lại Datư tưởng Như Lai Tạng; giữa A Lại DaNhư Lai tạng, ông thiên về A Lại Da. Nhưng ông không giống như Vô Trước là bởi trong các luận thư của Vô Trước, điều căn bảnVô Trước không phát hiện ý thú Như Lai tạng, bản hữu Phật tánh, thường lạc ngã tịnh v.v... trong “Thập Ðịa Kinh Luận” và Phật Tánh Luận”. Thế Thân tuyên dương rất sáng tỏ về Như Lai tạng, về bản hữu Phật tánhthường lạc ngã tịnh. Cũng nhân điểm này mà Mộc Thôn Thái Hiền mới lấy Ðại thừa Phật giáo của Thế Thân chia làm thành hai hệ lớn.

1. Hệ Du Già Phật giáo từ Vô Trước đến Thế Thân.

2. Hệ Như Lai Tạng Phật giáo là từ “Như Lai Tạng Kinh” đến Thế Thân. Nếu đem hai hệ này đối chiếu với những dịch giả dịch các luận thư của Thế Thân ra Hán ngữ; lập trường của Bồ Ðề Lưu Chi, Bát Nhã Lưu Chi, Chơn Ðế v.v... thuộc hệ Như Lai tạng.

- Duy Thức Tam Thập Luận.

Hiện tại xin thảo luận việc Thế Thân tiếp nối tư tưởng Vô Trước đấy là lập trường về Duy Thức Nhị Thập LuậnDuy Thức Tam Thập Luận (còn gọi là Duy Thức Tam Thập Tụng), có thể nói là tác phẩm đại biểu cho môn Duy thức học của Thế Thân. Ông tuy là người sáng tác Duy Thức Tam Thập Tụng, nhưng ông chưa tự mình viết lời giải thích cho bộ luận này. Mãi về sau mới được mười vị đại luận sư viết lời giải thích cho bộ luận tụng này. Luận Thành Duy Thức của Trung Quốc sở dĩ thành tựu là do ngài Khuy Cơ thỉnh cầu ngài Huyền Trang tổng hợp những thích luận của mười vị đại luận sư về bộ Duy Thức Tam Thập Tụng. Trên thực tế, thầy của Huyền TrangGiới Hiền; Giới HIềnhọc giả của hệ ngài Hộ Pháp. Cho nên nội dung luận Thành Duy Thức đều lấy kiến giải của Hộ Pháp làm chuẩn. Và như vậy, không thể nói nội dung luận Thành Duy Thứctư tưởng của Thế Thân, cũng không thể nói nó là đại biểu cho tư tưởng của mười vị đại luận sư. Dù gì đi nữa, thì Duy Thức Tam Thập Tụng, về mặt hình thức đến tư tưởng Thế Thân mới tròn đủ.

1. Duy thức tướng, gồm hai mươi mốt bài tụng đầu. Duy thức tướng thuyết minh cho hiện tượng của vũ trụ vạn hữu.

2. Duy thức tánh, ấy là bài tụng thứ hai mươi lăm. Bài này thuyết minh cho tất cả lý tánh (bản thể của sự tướng).

3. Duy thức vị gồm năm bài tụng cuối, năm bài tụng này trình bày các quả vị tu chứng theo trình tự khác nhau. Trong ba cương mục trên, thì Duy thức tướng là cương mục quan trọng nhất, chủ yếu của Duy thức tướng là giải rõ ba tướng năng biến của thức.

Căn cứ vào câu tụng bằng Phạn ngữ được dịch ra Hán văn: “Giả thuyết chủng chủng ngã cập pháp, thị do thức chuyển biến cố hữu” (vì là giả phải nói những tướng ngã, tướng pháp, tất cả đều do sự chuyển biến (khởi niệm) của thức cho là có). Câu tụng này khi dịch sang Hán văn là “Do giả thuyết ngã pháp, hữu chủng chủng tướng chuyển, bỉ y thức sở biến(9). Cả hai lối trình bày trên đều nói về hiện giới của vũ trụ vạn hữu, rằng tất cả đều là sự chuyển biến (sinh khởi ý niệm) của thức mà xuất hiện. Tướng năng biến của thức co ba chủng loại:

1. Dị thục năng biến - đệ bát thức A Lại Da.

2. Tư lương năng biến - Ðệ thất thức Mạt Na.

3. Liễu biệt năng biến - nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tiền lục thức.

Theo Duy thức học thì tất cả vạn pháp đều do sự biến hiện của tám thức. Nói cách khác, công dụng của tám thức là có khả năng biến hiện tất cả vạn pháp. Do đó cho nên gọi tám thức là năng biến thức, và tám thức được chia thành ba loại, nên gọi là tam năng biến. Ý của Dị thục là chỉ giữa nhân và quả có sự bất đồng về thời gian, bất đồng về tính chất, chẳng hạn trên cây đào nảy ra nhánh, hoa. Và tương lai hoa sẽ kết thành quả và chín. Như thế gọi là “di thời nhi thục”, tức chỉ thời gian giữa hoa và quả chín là có khác nhau; mùi vị của quả chín hoàn toàn khác với cây đào ban đầu, mùi vị ấy cũng chẳng giống mùi vị của hoa đào, như thế gọi là “dị loại nhi thục”, tức chỉ tính chất có sự khác nhau. Thức A Lại Da là chủ thể của sinh tử, tử sinh của chúng sinh, thức A Lại Da có khả năng khởi tất cả các pháp, do đó nên gọi thức này là Nhất thiết chủng tử thức, do thức A Lại Datriển khai ra “căn thân” (nhân sinh giới) và “khí thế gian” (vật chất giới). Thức A Lại Da thường tương ứng (khế hợp) với năm tâm sở biến hành (hoạt động tâm lý) là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư; tâm sở ảnh hưởng đến sự biến đổi về chất của thức A Lại Da, tức nội dung của thức Nhất thiết chủng tửniệm niệm sinh diệt, tình hình chuyển biến sinh diệt này luôn diễn ra giống như thác nước đổ ào ào trông như tấm vải bố trắng treo lơ lửng không bị cắt đứt đoạn, nghiên cứu kỷ, thì tướng chuyển biến hoán đổi của thức chủng dù trong một sát na cũng không ngưng nghỉ. Khi tâm sở ảnh hưởng đến thức thứ tám, thì ảnh hưởng đó trở thành chủng tử của thức (nhân), khi chủng tử chuyển biến thành hiện tượng, thì đó là lúc chủng tử hiện khởi thành hiện hành (quả). Mối quan hệ nhân - quả diễn ra trong trạng thái Dị thời nhi thục và dị loại nhi thục. Do đó, thức thứ tám còn có tên là Dị thục năng biến thức.

Ý của danh từ Tư Lương là tự lự, suy lường. Nghĩa là thức thứ bảy thường luôn tư lương về thức thứ tám, vin vào sự tư lướng ấy mà chấp cho đó là Ngã. Thức thứ bảy y vào thức thứ tám, duyên lấy thức thứ tám, chấp trì (nắm giữ) thức thứ tám làm Ngã, vì vậy mới sinh ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Do đó, thức này còn được gọi là Tư lương năng biến thức.

Tiền lục thức lấy ý thức làm chủ và rồi mỗi thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức) nương theo cảnh tượng thô thiển (rõ ràng cụ thể) mà nhận biết, phân biệt. Do đó, ý thức được gọi là Liễu biệt cảnh thức. Ðệ lục ý thức thống nhất với tiền ngũ thức, và tương ưng với rất nhiều tâm sở. Chẳng hạn những hoạt động tâm lý được hiện khởi thường ngày là phạm vi của thức Liễu biệt cảnh, do đó nên gọi thức này là Liễu biệt năng biến thức.

Như vậy, rõ ràng là tất cả hiện tượng giới đều do sự chuyển biến, phân biệt của tám thức mà sinh khởi, bởi trên thực tế không thực có hiện tượng giới nào cả. Do đó, theo Duy Thức học: tất cả các pháp đều do thức hiện khởi. Tức cũng lấy ba loại phân biệt thức làm gốc cho những biến hiện của Duy thức học.

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 461)
Một buổi sáng mùa thu năm 1976, tụng xong phẩm Dược Vương bổn sự của kinh Pháp Hoa, bước xuống tầng cấp chánh điện chùa Già Lam thì tôi gặp thầy tôi, Hòa thượng Trí Thủ, chống chiếc ba toong đứng tựa người vào thành lan can của sàn nhà hóng mát thấp lè tè nối liền với bàn chờ của tầng cấp dẫn lên điện Phật.
(Xem: 788)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp tăng sinh của các Phật học viện: Báo Quốc – Huế, Phổ Đà – Đà Nẵng, Hải Đức – Nha Trang, Già Lam – Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng.
(Xem: 489)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà – Đà Nẵng, Hải Đức – Nha Trang, Quảng Hương Già Lam – Sài Gòn.
(Xem: 1387)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 1823)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 12218)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5164)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 27153)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 1898)
Viết về lịch sử là một việc làm quan trọng, vì nếu khôngquá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không có thì chắc rằng vị lai cũng sẽ không.
(Xem: 14306)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 10164)
Chúng tôi cho phổ biến bài báo này, không ngoài mục đích chỉ muốn cung cấp thêm một sử liệu hiếm quý về một Thích Trí Quang...
(Xem: 11595)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 16253)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 17466)
Năm mươi năm qua, Cố HT Thích Thiên Ân, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, và nhiều tăng, ni và cư sĩ Phật Giáo Việt Nam khác đã nỗ lực không ngừng đem Phật Pháp đến với người Mỹ bản xứ...
(Xem: 14412)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 9602)
Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa
(Xem: 16134)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 17623)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 30793)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
(Xem: 21836)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 46526)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 10482)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10245)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 12023)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 20933)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 10506)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11729)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30700)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 16104)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 31244)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 13312)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38481)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 24293)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 14943)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24616)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 17618)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22723)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 29825)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 32434)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 26752)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 69791)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 25554)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 40357)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 28589)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 41032)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24085)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23033)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 33601)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 24478)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 34432)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 28340)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 32523)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 26344)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 15036)
Nhìn thấy rõ tướng vô thường và khổ đau đang bủa xuống quanh cuộc sống, đêm rằm tháng hai âm lịch, Thái tử lên ngựa Kiền-trắc (Kanthaka) cùng với người hầu cận...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant