Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

29 Tháng Tám 202019:32(Xem: 7061)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn

 

Huỳnh Kim Quang

Tu nhà năm mấy tuổi đầu

Lẽ huyền chưa đạt thâm sâu Bến Bờ

Chừ nương cảnh chợ sống hờ

Thử xem nhẫn nhục còn chờ những chi?

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.”

(Tâm Tấn, Đêm Huyền)

 

Mấy câu thơ ở trên đã diễn bày được trọn vẹn cuộc đời của một người nữ cư sĩ tu tại gia “nương cảnh chợ sống hờ,” nhưng kiến giảitâm nguyện thì hướng tới cảnh giới bất nhị “Niết Bàn-Địa Ngục bất ly.” 

Đó là một đoạn của bài thơ Đêm Huyền trong tuyển tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương,” đã được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2004, của nữ sĩ Tâm Tấn, đã qua đời vào ngày 13 tháng 7 năm 2020 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam, thượng thọ 100 tuổi. 

Tuyển tập thơ này tôi đã đọc từ sau khi nó được phổ biến tại Hoa Kỳ do người con trai của nữ sĩ Tâm Tấn là nhà văn Vĩnh Hảo thực hiện. Bây giờ nhân cụ ra đi về cõi Phật, nhà văn Vĩnh Hảo tặng cho tôi để đọc lại và cũng để tưởng niệm công đức của nữ Sĩ Tâm Tấn đối với nền văn học nước nhà nói chung và nền văn học Phật Giáo Việt Nam nói riêng. 

Thú thật, lần này đọc lại tập thơ tôi rất đỗi ngạc nhiênthú vị vì chất thơ thấm đẫm hương vị văn chương và chất Phật cao thâm siêu thoát trong thơ của bà.

Nói nào ngay, xét ra tôi cũng rất có duyên với gia đình nữ sĩ Tâm Tấn. Tôi biết bà từ những năm sau 1975, chính xác là năm 1976. Nhưng bà thuộc thế hệ tiền bối nên chỉ biết mà không thân cận. Ngược lại tôi quen thân với nhiều người con của bà, như thi sĩ Phù Du Vĩnh Hiền, nhà văn Vĩnh Hảo, nhà văn Vĩnh Hữu, Vĩnh Hiếu và Vĩnh Bình. 

Trong bài thơ Đêm Huyền vừa trích, có mấy câu đáng suy gẫm:

 

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.

 

Thi sĩ Tâm Tấn đưa ra một hình ảnh rất đời thường để nói đến lý bất nhị của Niết BànĐịa Ngục: trong và ngoài cánh cửa. Đọc câu sau chúng ta sẽ thấy đó là cánh cửa tâm. Đúng vậy, Niết Bàn hay Địa Ngục cũng từ tâm mà ra. 

Điều khá lý thú khác ở đây là thi sĩ đưa ra thí dụ về việc mở tâm và khép tâm. Mở tâm thì bước vào cõi Ta Bà khổ đau. Khép tâm thì thể nhập Chơn Không tịnh lạc. Đây là một ẩn dụ rất sâu xa cho thấy thi sĩ Tâm Tấn là người Phật tửtu tập. Mở tâm tức là hướng tâm ra ngoài, là vọng động chạy theo trần cảnh. Khép tâm tức là xoay tâm vào bên trong nội quán để thể nhập Chơn Không. 

Thi sĩ Tâm Tấn kết thúc bài thơ Đêm Huyền với mấy câu thấm đẫm chất Phật:

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

Trăng nương gió lật trang Thơ

Đèn khuya bấc lụn trầm tư đêm huyền.

 

Triết lý nhị đế dung thông của nhà Phật nằm gọn trong câu “Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.” Sống trong cõi tục đế, tức cõi thế gian phàm tục, nhưng lòng thì không bao giờ quên đại nguyện chứng nhập vào cõi xuất thế của Chân Đế, Chân Như

Hai câu cuối chuyên chở chất liệu văn chương làm say mê người đọc. Ở đây thi sĩ mô tả cảnh đêm trăng huyền diệu mà bà đang thưởng lãm. Chính tâm cảnh ngắm trăng thơ mộng đó đã như chất liệu kỳ diệu cho thơ trào ra. Thi sĩ đã sử dụng một ẩn dụ đầy sáng tạo “Trăng nương gió lật trang Thơ” để miêu tả cảm trạng xúc cảnh sanh tình gây cảm hứng cho hồn thơ tuôn chảy. Câu sau cùng là một câu thơ có họa và nhạc. Họa là ngọn đèn mà cái bấc đã cháy gần cạn nên ánh sáng còn yếu ớt huyền ảo. Nhạc là qua khung cảnh một người ngồi trước ngọn đèn leo lét nhìn bên ngoài ánh trăng như ảo như mộng, có thể nghe được sự tĩnh lặng sâu lắng trong khung cảnh này.

Trong bài thơ “Quán Thế Âm Tịnh Thánh,” thi sĩ Tâm Tấn đã thổ lộ tâm tư của bà với Bồ Tát:

 

Con từ bao kiếp Vô minh,

Vãng lai vấp ngã Tử Sinh đôi bờ.

Đò thiêng lỡ chuyến bơ vơ,

Xôn xao nghiệp Ái gánh hờ Trần Duyên.

 

Đó là lời bộc bạch chân thật của một người Phật tử tại gia đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong đoạn thơ trên, chúng ta thấy thi sĩ Tâm Tấn trong cõi sâu xa của tâm thức dường như không thể quên ước nguyện từ vô lượng kiếp muốn đáp chuyến đò từ bờ bên này sinh tử luân hồi sang bên kia bờ giải thoát niết bàn. Có lẽ vì thế, đối với bà, nghiệp trần duyên của kiếp này chỉ là “gánh hờ” chứ không phải là sự nghiệp trường cửucứu cánh mà bà nhắm tới. Nhưng nói thế không có nghĩa bà không sống hết mình với vai trò của một người vợ một người mẹ. Nhà văn Vĩnh Hảo đã viết về người Mẹ của ông trong Đôi Lời Vào Tập của tập thơ Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương như sau.

“Người mẹ thi sĩ của chúng tôi đẹp, hiền lành, nhân ái, quả cảm, tận tụy một đời chăm sóc chồng con; vất vả trăm chiều sinh và dưỡng bầy trẻ 14 đứa… Cuộc đời Mẹ, từ những con chữ trên trang giấy cho đến những hạt gạo, miếng vải, mồ hôi nước mắt, lời ru giọng hát, tiếng khen thưởng con ngoan, hay tiếng la trách con hư… đều toát lên cái ý vị phong nhiêu diệu vợi của thơ, và của tình.”

Từ bối cảnh tâm thức thấm nhuận Phật Pháp như thế, nên hơn 50 bài thơ trong tuyển tập “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” không bài nào, không câu nào không bàng bạc giáo lý Phật Đà.

Trong tập thơ nêu bật mấy chủ đề quan trọng mà thi sĩ Tâm Tấn hay nói đến, gồm Lễ Vu Lan với tình mẫu tử và hiếu đạo, tinh thần yêu chuộng hòa bình vì đó là bản chất của đạo từ bi của nhà Phật, các sự kiện liên quan đến lịch sử của đất nước và Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1975.

Trong bài Cảm Niệm Vu Lan 2, thi sĩ Tâm Tấn tưởng niệm ân đức của bậc sinh thành, với lời thơ chí thành tha thiết.

 

Ba mươi năm sau… đầu con sương giá,

Ngồi thương cha nhớ mẹ tuổi hoàng hôn:

Bờ âm dương lấp biển với che nguồn,

Con chỉ thấy núi xa mây trắng hiện…

 

Hai tách trà thơm dâng vào cõi huyễn,

Dĩa trầu cau nồng thắm cũng hư vô!

Những giấc chiêm bao ôm mẹ mơ hồ

Những giọt lệ mừng cha tàn ảo ảnh…

Vén trí phàm phu phút giây nhập thánh,

Tâm là hoa xin hướng cội kỳ hoa.

Kinh Vu Lan ấm phủ mẹ Hồn cha,

Con quỳ lạy minh châu kim trượng chuyển

Ân Đại Hiếu Kiền-Liên muôn kiếp hiển…

Xin mẹ cha mau thoát khỏi luân hồi,

Chín phẩm sen vàng ân phước vào ngôi,

Con hồi hướng với tâm lành trọn kiếp.

 

Trong tình mẫu tử thiêng liêng, thi sĩ Tâm Tấn đã bày tỏ nỗi đau của người mẹ mất con trong bài Khóc Con.

 

Ai nỡ cướp con tôi măng sữa,

Chôn vùi sâu, cách cửa âm dương!

Nơi đây hơi Mẹ ấm giường,

Sao con nằm chốn gió sương mưa dầm?

Dưới huyệt trũng, nắng dầm thiêu đốt

Héo thân con, đau buốt lòng Me!

Mưa Đông rồi tiếp nắng Hè

Đất vun cỏ đắp khôn che ấm tình…

 

Là người Phật tử phụng thừa lời dạy từ bitrí tuệ của Đức Phật có nghĩa là không chủ trương, không hậu thuẫn cho bất cứ cuộc chém giết tương tàn nào đối với muôn vạn sinh linh. Điều đó cũng có nghĩa là người Phật tử luôn luôn sống với suy nghĩ, lời nói và hành động hàm chứa tinh thần hòa bình và nỗ lực kiến tạo cuộc sống hòa bình cho mình và cho tha nhân. Thi sĩ Tâm Tấn là mẫu người Phật tử như thế. Trong bài thơ “Lời Cầu Nguyện Hòa Bình,” thi sĩ Tâm Tấn bày tỏ ước mơ đất nước hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh.

 

Thắp nến Diêm Phù xin châm lửa Tuệ

Trầm hương dâng, xin ngát Pháp Hoa tâm

Đàn con thơ thống thiết vọng hồng ân

Lễ Thành Đạo xin chuyển vần Xe Pháp.

Lạy Từ Phụ! quê hương con đổ nát

Vì Tham Kiêu đã khoác lốt cuồng chinh

Hai mươi năm thây chất bởi vô minh

Tưởng Tiên Dược đem Trường Sinh Bất Tử:

Chủ nghĩa này trưng chiêu bài, đưa nhủ!

Ý thức kia “Đời nguyên tử” khoe trao!

Năm tiếp năm vết Đạn xoáy Bom cào,

Ngày tiếp tháng Núi Sông gào “Độc Dược”!

Lạy Từ Phụ! xin ban niềm mộng ước

Bóng Thanh Bình làm linh dược hồi sinh.

 

Thi sĩ Tâm Tấn là người thân cận với chư tôn túc lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam từ thập niên 1950, khi bà được Cố Hòa Thượng Thích Trí Quang mời cộng tác cho báo Liên Hoa tại Huế. Rồi sau đó bà cộng tác với báo Bát Nhã của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Vì vậy cuộc đời của thi sĩ gắn liền với vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam từ đó về sau. Trong biến cố nhà Ngô đàn áp Phật Giáo vào năm 1963, thi sĩ Tâm Tấn đã là một trong những nhân chứng sống. Trong bài thơ Ác Mộng viết vào ngày 16 tháng 8 năm 1963, nghĩa là 4 ngày trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm tổng tấn công vào chùa chiền trên toàn quốc, bà đã ghi chú ở cuối bài thơ rằng, “Vừa khóc vừa làm trong đêm 16/08/1963.”

 

Bạn ơi, bạn ơi! núi vun mây hận

Đất phương này sấm động náo tâm tư.

Vừng Từ Vân khuất lấp bởi sương mù,

Hoa Tinh Tấn dập vùi trong bão chướng.

Kinh ngạc sững sờ hồn không định hướng

Ngẩng nhìn cao tìm dấu vết Từ Vân.

Bắc Đẩu tinh phương chiếu rạng tinh thần

Vầng nguyệt từ bi biến mờ đâu cả!

 

Trong bài Áo Vàng Bất Diệt, thi sĩ kể tình hình Phật Giáo vận động cho tự dobình đẳng tôn giáo năm 1963 như sau.

 

Phật Giáo Tăng Ni, tín đồ tranh đấu

Thiết tha đòi Năm Nguyện Vọng thuần từ.

Nạn độc tài vận nước lúc suy hư,

Giáo Kỳ trưng lên, Giáo Kỳ triệt hạ!

Nhìn Thầy tuyệt thực, nắng sương đỏi lả,

Rồi nghe tin Thượng Tọa tự thiêu mình

Và  Sa Di, Đại Đức tiếp hy sinh

Lửa Tử Đạo bừng bừng trong ánh mắt.

 

Khép tập thơ lại. Lòng tôi dâng lên niềm cảm thán và kỳ thú. Cảm thán vì đọc được những bài thơ chứa chan tình đời nghĩa đạo. Kỳ thú vì không ngờ một người “chưa từng cặp sách đến trường” – như nhà văn Vĩnh Hảo đã viết trong lời đầu tập thơ – mà có thể có được kiến vănchữ nghĩa bác lãm và uyên thâm như thế. Đây quả thật là một sự hiếm có. Tôi tự giải thích cho chính mình với hai nhân duyên. Thứ nhất là nỗ lực phi thường của chính thi sĩ Tâm Tấn trong việc tự học trong đời này. Thứ hai là bà vốn có một thiên tư trí tuệ đặc dị mà không phải ai cũng có, nếu không muốn nói là bà mang chủng tử trí tuệ từ nhiều kiếp trước đến đời này. Điều này làm cho tôi rõ lý do tại sao thi sĩ đã nhiều lần nhắc đến ước nguyện trở về cố hương Chân Như trong trong tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.” 

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

 

Xin kính cảm ơn thi sĩ Tâm Tấn. Nhân tuần chung thất của bà, xin cầu nguyện bà sớm hoàn thành ước nguyện.

 Tap tho CUOI DOI LOC NHUNG TINH SUONG

Bìa tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3127)
Một buổi sáng, Trời Mây trong xanh ngắt, Nắng tung tăng chào đón một ngày vui... Gió êm đưa tia nắng rộn niềm vui, Mặt Trời lên tỏa hào quang rực sáng...
(Xem: 3177)
Hôm nay vào trước Cổng Chùa, Nhận Cành Hoa Trắng cài lên áo mình. Tâm Hương một nén ân tình, Kính dâng lên Mẹ muôn phần nhớ thương !
(Xem: 4044)
Thi Hoá Kinh Trung Bộ 4 tập - Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 3819)
Tuy là thầy của Nhật Hoàng Thiền sư vẫn thích lang thang du hành Ngài tuy đã rất nổi danh Vẫn làm khất sĩ dạo quanh khắp vùng.
(Xem: 4028)
Cỏ cây, sinh vật thời xưa Đều cùng biết nói, lại vừa biết nghe Riêng loài người giỏi mọi bề Được tôn chúa tể chính vì trí khôn,
(Xem: 4238)
Nguồn sức mạnh của trẻ thơ Chính là tiếng khóc bất ngờ kêu la. Nguồn sức mạnh của đàn bà Là cơn phẫn nộ bùng ra tức thời.
(Xem: 5702)
Một thiền sư rất nổi danh Lãng du theo đám mây xanh cuối trời Chân ông in dấu khắp nơi
(Xem: 3531)
Tất cả Pháp Thế Gian, Ta cần phải buông bỏ, Tín- Hạnh- Nguyện ghi nhớ. Thu nhiếp các Lục Căn, Giữ Tâm luôn thanh tịnh.
(Xem: 4165)
Khi mà bạn có Mẹ hiền Chăm lo cho bạn ngày đêm an phần Những gì bạn muốn bạn cần Mẹ hoan hỉ giúp, xả thân chẳng phiền.
(Xem: 4696)
Mẹ mà nở những nụ cười Lúc nào cũng chiếu sáng ngời đẹp thay, Mẹ ôm ấp trong vòng tay Mang niềm vui tới bao ngày trong ta.
(Xem: 3386)
Có hai phương cách thông thường Thực thi tôn giáo cõi dương trần này Một là hãy sống xa đây Xa nơi trần tục như thầy tu thôi
(Xem: 2973)
Trời rạng muôn phương với trăng sao, Đất rung bảy lần cùng núi rừng, Người về rực rỡ vườn tuệ giác, Thiên nhạc dặt dìu khúc xưng dương.
(Xem: 3558)
Một người giàu có thuở xưa Tác phong đứng đắn lại thừa thông minh Cho nên các kẻ chung quanh Tỏ lòng thán phục, tỏ tình kính yêu
(Xem: 8743)
Cuộc đời ảo giác giấc mộng dài, Lao đao chuốc khổ để làm chi? Suốt ngày say khướt bên chén rượu, Mình ta ngất ngưỡng mái hiên ngoài.
(Xem: 4780)
Cầu mong đại dịch chóng qua thôi Thế giới giờ đây điêu đứng rồi Phố xá đìu hiu đều đóng cửa Thôn quê lặng lẽ thảy im hơi
(Xem: 3140)
Lời Kinh Đêm càng vút cao cao mãi, Tỏa lan vào ánh sáng khắp Không Gian... Mỗi Câu Kinh tràn ý nghĩa Ngọc Vàng, Bây cao mãi, hòa tan vào Vũ Trụ....
(Xem: 3722)
Thiền sư tinh tấn tu hành Cho nên đạo hạnh nổi danh khắp vùng Bà con ca tụng vô cùng Ngài nêu gương sáng soi chung cho đời.
(Xem: 4782)
Trong một viện dưỡng lão ở nước Úc, cụ ông Mak Filise, 86 tuổi, không có thân nhân nào thăm viếng trong nhiều năm.
(Xem: 4030)
Nước kia có một ông vua Nghe lời đồn đãi khó ưa về mình Ngoài đời có kẻ phê bình Rằng mình bạo ngược, tính tình tàn hung
(Xem: 4311)
Lại thêm một ngày cho cuộc đời. Lại thêm một ngày cho em, Lại thêm một ngày cho anh, Lại thêm một ngày cho những người còn sống trên cõi đời này.
(Xem: 4503)
Nợ nước thù chồng nặng cả hai Cùng em chia sẻ bước chông gai Sơn hà dựng lại, dân ghi đức Vương bá xây nền quốc chính ngôi
(Xem: 4277)
Nguyện Cầu Đức Phật Dược Sư, Chữa cho Thế Giới bớt dần dịch căn,
(Xem: 3347)
Một năm Thầy Hư Vân về Kê Túc, Để tịnh tu, giao Hội cho Cao Tăng... Tại đây, Thầy tu sửa Chùa Hưng Vân... Chùa La Thuyên, tỉnh Hạ Dương cho hoàn chỉnh
(Xem: 4950)
Ta cứ ngỡ tuổi già toàn tẻ nhạt, Ngại bốn mùa năm tháng lướt qua nhanh,
(Xem: 3342)
Nơi miền bắc Ấn Độ xưa Trong vương quốc nọ có vua trị vì Giúp vua là vị quan kia Có tài định giá những gì bán buôn
(Xem: 4686)
Bạn ơi, Muốn sống hạnh phúc thì xin bạn: Đừng đem chuyện hàng xóm vào gia đình. Đừng đem chuyện đường phố vào nhà. Đừng đem chuyện cộng đồng vào những bữa cơm.
(Xem: 5022)
Tuyển tập song ngữ “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” đã góp một phần rất tuyệt vời khi đưa ra ánh sáng một phương diện khác của ảnh hưởng Thiền tại Việt Nam...
(Xem: 5060)
Xuân về khắp chốn rộn tin vui Mở cửa mừng Xuân rạng ánh cười Phú quý Xuân sang nguồn cội thắm Vinh hoa Tết đến nghĩa tình tươi
(Xem: 3831)
Kỷ Hợi qua, Canh Tý đến nhanh, Ba Mươi Tết, thanh thản, yên bình, Bánh chưng xanh, quả, hoa bầy sẵn, Chuẩn bị dâng cúng Phật đầu năm.
(Xem: 4123)
Thêm một mùa Xuân chốn viễn phương. Nhớ về quê cũ trắng canh trường!
(Xem: 3878)
Thức chờ năm mới gió đượm hương trà nửa khuya tóc trắng một đời sắp qua.
(Xem: 4536)
Rừng Sala giữa cây Song Thọ, Lúc nửa đêm, Phật sắp Niết Bàn, Không khí quá trang nghiêm yên tịnh, Các Đệ Tử ngồi kín chung quanh.
(Xem: 3876)
Trong chuyến đi, Hành Hương Thăm Đất Phật. Đến Sông Hằng rồi Lộc Uyển xanh tươi, Tiếp theo là Thánh Tích Phật xa xôi... Rồi sau đến Nalanda hoang phế!
(Xem: 4488)
Nhân vào ngày Lễ Tạ Ơn Chúng ta cảm tạ vô vàn thành tâm Những lời cầu nguyện quanh năm, Tạ ơn gia cảnh muôn phần yêu thương,
(Xem: 4186)
Tờ mờ sáng tinh sương, Gậy, nón lá, lên đường, Ai không khỏe ở lại ! Vì Leo núi đường trường,
(Xem: 3522)
Một ngày mới tôi về thăm Phật Tích. Bao lâu rồi trông đợi đến hôm nay. Thời gian qua tâm tư ngóng từng ngày. Đủ duyên lành cùng nhau thăm Đất Phật
(Xem: 4170)
Ở Ba La Nại thời xưa Có nhà giàu nọ rất ưa bạc bài Ông thường chơi với một người Cũng mê bài bạc, tứ thời ăn thua
(Xem: 4197)
Thuở xưa có kẻ đi đường Rất là khát nước nên dừng chốn đây Kiếm tìm nước khắp Đông Tây Thấy sương lóng lánh giăng đầy phía xa
(Xem: 4651)
Tu Bồ Đề sinh ra đời Một ngày đặc biết đất trời lạ sao Trong nhà của cải biết bao Tự nhiên biến mất đường nào ai hay.
(Xem: 5505)
Dốc đá ven đường tiến thẳng non, Sương chùng suối róc cảnh chon von. Qui chơn thấy lẽ không tìm ngọn, Lập hạnh vun đời vẫn nguyện con.
(Xem: 3974)
Thuyền Nhân trước nay thành “Thùng Nhân” Việt... Boat People hoá thành “Load People”. Xin cầu nguyện cho những linh hồn vừa khuất bóng.
(Xem: 4081)
Hè nhau báng bổ chốn thiền môn Kẻ xướng người hô phang dập dồn Bắt bóng toang mồm rao báo nóng Trông hình ngoác mỏ động làng ồn
(Xem: 4646)
Lắng lòng nghe một chiếc lá rơi Mùa Thu vừa đến nhẹ bên đời Chiều phai, giọt nắng còn vương đọng Như thầm tiếc nuối một ngày trôi..
(Xem: 4155)
Trước khi câu chuyện xảy ra Ở bên châu Á người ta nói rằng Voi và chó chẳng kết thân Chẳng bao giờ có thể gần gũi nhau,
(Xem: 4978)
Cội Bồ đề lá cành xanh thắm Bám đất sâu in đậm bóng từ Bao năm chẳng quản hoại hư Chở che muôn loại thân như diệu kỳ
(Xem: 4703)
Duyên trần thúc đẩy đến nơi này, Khổ luỵ sầu đau cứ mãi quay Lận đận bơ vơ bao mộng mị Lênh đênh lạc lõng bấy mơ lay
(Xem: 4142)
Bồ tát tự tại cứ đi, Chúng sanh theo gót những gì ngài qua, Để cùng thoát khổ Ta Bà, Tây phương tịnh độ một nhà an vui.
(Xem: 3780)
Có chàng giàu có kể chi Tiền nhiều nhưng lại ngu si tức cười Không hề biết đến việc đời, Một hôm chàng chợt dạo chơi trong vùng
(Xem: 4174)
Căn bản của sự tha thứ là quên đi những gì đã xảy ra, nhưng nhớ những gì đã xảy ra rồi và cần tha thứ cho sự bình an của tâm hồn.
(Xem: 5209)
Tiếng Mẹ reo mừng con mới sinh ra, hoặc cười vui trong nghẹn ngào cảm xúc, là tiếng thơ đầu đời của con.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant