Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chữ Hiếu trong ca dao, tục ngữ Việt Nam

04 Tháng Mười 201000:00(Xem: 26762)
Chữ Hiếu trong ca dao, tục ngữ Việt Nam
Sự thực hành đức tánh từ bi hỷ xả của đức Phật.
Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài tạo nên những nét đẹp cao quý, thành ca dao, tục ngữ, thành đặc tính tinh thần Đông Phương. Có lẽ chỉ có người Á Đông mới có tục lệ chúc thọ cho ông bà, cha mẹ và cũng có lẽ chỉ có người Á Đông mới yêu chuộng tinh thần "đại gia đình" - Ông bà, cha mẹ, con cháu, chắt, chút chít... sống quây quần đầm ấm trên cùng một mảnh đất gia tiên, bao bọc bởi lũy tre xanh, hàng dậu bông bụt - Và vì thế nên tình thân được nẩy nở, đơm hoa kết trái để luôn luôn gần gũi, thương yêu và đùm bọc với nhau.

hình ảnh nào đẹp hơn cảnh gia đình sum họp trong những buổi chiều nhàn nhã, gió hiu hiu nhẹ thổi vừa đủ để bà nằm võng đu đưa, tay ôm đứa cháu nhỏ nhè nhẹ hát ru cháu dưới bóng mát của hàng cây sau vườn; ông ngồi kể chuyện cổ tích với đàn cháu vây quanh vừa lắng tai theo dõi vừa nhổ tóc sâu, thỉnh thoảng lại chen vào những câu hỏi thơ ngây làm câu chuyện thêm rộn ràng giữa hương thơm của hoa cau, hoa bưởi ngạt ngào trong không gian miền thôn dã. Hoặc những buổi tối: "...Cha tôi ngồi xem báo, mẹ tôi ngồi đan áo,bên cây đèn dầu hao..."

Tinh thần chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam được diễn đạt qua những câu thơ sau đây của Trần Kế Xương càng làm nổi bật những đức tính hy sinh của người mẹ, người vợ:

- Quanh năm buôn bán ở ven sông.

Nuôi đủ năm con với một chồng...

Mẹ đã tảo tần thức khuya, dậy sớm lo việc tang tầm, thu vén nhà cửa, không những lo cho con mà còn phải lo cho chồng thư sinh chỉ biết việc bút nghiên:

- Canh một dọn cửa dọn nhà,

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm,

Canh tư bước sang canh năm,

Trình anh dậy học chớm nằm còn chi.

Lỡ mai Chúa mở khoa thi,

Bảng vàng kia cũng sẽ đề tên anh.

Hay là:

- ... Nửa đêm về sáng gánh gồng nuôi con...

- Nuôi con buôn bán tảo tần,

Chỉ mong con lớn nên thân với đời.

Những khi trái gio trở trời,

Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

Tấm lòng của mẹ thật bao la, mênh mông như trời bể, mặc thân gầy yếu, hao mòn chỉ mong cho con được khôn lớn, mẹ đã vắt cạn dòng sữa thơm cho con được no đủ:

- Bồng con cho bú một hồi,

Mẹ đã hết sữa con vòi, con la.

Lại còn những khi con đau ốm, mẹ nào được an giấc:

- Con ho lòng mẹ tan tành,

Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.

Mẹ đã đem hết sức mình để bảo bọc, che chở cho con được an lành, bình yên:

- Nuôi con chẳng quản chi thân,

Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.

Tấm lòng mẹ trải rộng bao la, không nghĩ gì đến sức khỏe bản thân chỉ nhất mực lo cho con, dù suốt đêm không chợp mắt:

- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,

Năm canh chày thức đủ vừa năm.

Nào đã hết, ngoài việc chăm nuôi, cho con bú mớm, mẹ phải thay cha nuôi dạy con cái:

- ... Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân...

Mẹ còn phải năng động hơn, xông xáo hơn để giáo dục, truyền đạt cho con những kinh nghiệm cá nhân mong con khôn ngoan, thành đạt trong xã hội:

- Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi, mẹ dắt con đi,

Con đi trường học, mẹ đi trường đời.

Vì thế người mẹ được ví: "Mẹ già bằng ba hàng dậu". Hạnh phúc thay cho những ai còn có mẹ để chia xẻ niềm vui, nỗi buồn, để được mẹ lo lắng chăm sóc như ngày còn thơ, để được hầu hạ gần gũi với mẹ. Có mẹ để thấy mình vẫn trẻ thơ như ngày nào:

- Có cha có mẹ thì hơn,

Không cha không mẹ như đờn đứt giây.

Đờn đứt giây còn tay nối lại,

Cha mẹ mất rồi con phải mồ côi.

Nào đã hết, mẹ vẫn lo toan vất vả trong phận dâu con, có sức chịu đựng nào bằng bổn phận người con dâu đè nặng trên vai của mẹ, dẫu chồng có lơ là, lạnh nhạt, nhưng vẫn không thất xuất trách nhiệm cá nhân, qua những câu ca dao sau đây:

- Gió đưa bụi chuối sau hè,

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.

Con thơ tay ẵm tay bồng,

Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng rơm.

Chữ hiếu không những chỉ thể hiện trong bổn phận người con, mà còn ràng buộc cả người con dâu nữa. Cụ bà Phan Bội Châu đã thay cụ ông hầu hạ, thuốc thang cho thân sinh cụ ông nay đau, mai ốm trong cảnh gia đình túng thiếu với các con thơ dại trong suốt thời gian cụ ông lo việc nước. Gương hy sinh, tiết liệt của người phụ nữ Việt Nam ể hình qua tinh thần trách nhiệm của cụ bà Phan Bội Châu làm rạng rỡ giá trị thiêng liêng tình nghĩa gia đình.

Người xưa ra đi lo việc nước đã nhắn nhủ vợ nhà:

- Anh đi, em ở lại nhà,

Vườn dâu em bón mẹ già em trông.

- Con cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non,

- Nàng về nuôi cái cùng con,

Để anh trẩy hội nước non Cao Bằng.

Bằng tâm tình của người chồng phải vắng nhà buôn bán phương xa, đã ân cần nhờ cậy vợ lo toan mọi việc và chăm sóc mẹ già sao cho tròn câu hiếu kính:

- Nhà anh chỉ có một gian,

Nửa thời làm bếp, nửa toan làm chuồng.

Anh cậy em coi sóc trăm đường,

Để anh buôn bán trẩy trương thông hành.

Còn chút mẹ già nuôi lấy cho anh,

Để anh buôn bán thông hành đường xa.

Liệu mà thờ kính mẹ già,

Đừng tiếng nặng nhẹ người ta chê cười.

Vai trò của người mẹ quan trọng biết là chừng nào:

- Mồ côi cha ăn cơm với cá,

Mồ côi mẹ, lót lá mà nằm.

- Gió đưa bụi trúc ngã quì,

cha con phải lụy dì, dì ơi!

Phải chăng vì thế con cái thường có khuynh hướng thương yêu và thân cận với mẹ hơn? Nói như thế không có nghĩa là vai trò của người cha không quan trọng:

- Con có cha như nhà có nóc,

Con cha gót đỏ như son,

Đến khi cha mất, gót con đen sì.

Còn cha nhiều kẻ yêu vì,

Một mai cha thác ai thì nuôi con?

Sự chăm sóc của cha có thể không chăm chút tỉ mỉ bằng mẹ, nhưng hoàn cảnh bắt buộc cha cũng vẫn lo cho con được no dạ:

- Nghiêng bình mở hộp nút ra,

Con ơi, con bú cho cha yên lòng.

Cha tuy già nhưng không quản ngại, cũng vẫn phải lo sinh kế trong vai trò cột trụ của gia đình, vì thế hình ảnh người cha cũng rất đậm nét trong tâm khảm của mọi người trong nhà:

- Cha tôi tuy đã già rồi,

Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà.

Sớm hôm vừa gáy tiếng gà,

Cha tôi đã dậy để ra đi làm.

Vắng bóng người cha làm cho gia đình trống vắng, quạnh hiu:

- Vắng đàn ông quạnh nhà.

Hơn thế nữa, trong vai trò giáo huấn đàn con, người cha bao giờ cũng coi trọng và nghiêm minh hơn, do đó ảnh hưởng giáo dục người cha thường tốt đẹptác dụng nhiều hơn mẹ:

- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

Hoặc:

- Mẹ đánh một trăm, không bằng cha hăm một tiếng.

- Mẹ dạy thời con khéo,

Cha dạy thời con khôn.

Dẫu thương yêu, gần gũi với mẹ nhiều hơn con cũng không quên được công ơn dưỡng dục của cha, bao giờ cũng hằn sâu trong tâm trí:

- Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,

Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ,

Đạo làm con chớ hững hờ,

Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.

Biết bao nhiêu áng văn thơ, ca dao, tục ngữ tán thán công đức Cha và Mẹ, cái hạnh phúc có được cha mẹ vẹn toàn để nhất tâm hiếu kính đã làm cho bao nhiêu người con thiếu vắng cha mẹ phải ước ao ngậm ngùi:

- Ân cha nặng lắm ai ơi!

Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.

- Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

Nhớ ơn chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình?

- Ngày nào em bé cỏn con,

Bây giờ em đã lớn khôn thế này.

Cơm cha, áo mẹ, công thầy,

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.

- Làm trai đủ nết trăm đường,

Trước tiên điều hiếu, đạo thường xưa nay.

Công cha đức mẹ cao dày,

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.

Nuôi con khó nhọc đến giờ,

Trưởng thành con phải biết thờ song thân.

Thức khuya dậy sớm cho(khi/ chuyen) cần,

Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.

"Xảy nhà ra thất nghiệp", mẹ cha có biết lòng con thương nhớ khôn nguôn (nguoi), tâm hiếu kính mang mang, luôn tưởng nhớ đến công ơn sinh dưỡng của đấng sinh thành:

- Ngồi buồn nhớ mẹ ta (nam) xưa,

Miệng nhai cơm bún, lưỡi lừa cá xương.

- Ngó lần nuột lạt mái nhà,

Bao nhiêu nuột lạt, em thương mẹ già bấy nhiêu.

- Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

- Gió đưa cây cửu lý hương,

Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.

Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn,

Đã bưng lấy bát, lại dằn xuống mâm.

Phải xa nhà lòng đau như cắt, biết có ai sớm hôm phụng dưỡng mẹ cha, để con khắc khoải nhớ thương:

- Lòng riêng nhớ mẹ, thương cha,

Bóng chim tăm cá biết là tìm đâu?

Trong vòng binh lửa dãi dầu,

Bơ vơ lưu lạc, bạn bầu cùng ai?

- Ra đi bỏ mẹ ở nhà,

Gối nghiêng ai sửa, mẹ già ai nâng?

- Một mai cha mẹ yếu già,

Bát cơm đôi đũa, kỷ trà ai dâng?

- Đêm đêm khấn nguyện Phật trời,

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Cha mẹ có hay lòng con như muối xát, chỉ mong sao cha mẹ được đầy đủ, mong được sáng thăm tối viếng, mong dâng đến cha mẹ tiếng (mieng) ngon vật lạ tỏ lòng hiếu kính phụng thờ mẹ cha:

- Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,

Giã gạo cho trắng đặng nuôi mẹ già.

Đói lòng ăn hột chà là,

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

- Đây bát cơm đầy nặng ước mong,

Mẹ ơi, đây ngọc (1) với đây lòng,

Đây tình con nặng trong tha thiết,

Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong.

 (1) Hạt gạo là hạt ngọc.

- Lên chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà thấy mẹ công phu sao đành?

Mẹ già ở túp lều tranh,

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.

- Cau non khéo bửa cũng dày,

Trầu têm cánh phượng để thầy mẹ xơi.

- Ai về tôi gởi buồng cau,

Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.

Ai về tôi gửi đôi giầy,

Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.

Cha mẹ nuôi con ơn sâu nghĩa nặng, dẫu nhọc nhằn vất vả con cũng chẳng ưu tư:

- Dấn mình gánh nước làm thuê,

Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân.

Làm con ăn ở sao cho phải đạo, mình biết hiếu kính mẹ cha đó là tấm gương tốt cho con cái noi theo "sóng trước làm sao, sóng sau như vậy", có hết lòng thờ phụng mẹ cha mới mong sanh con hiếu nghĩa:

- Nếu mình hiếu với cha mẹ,

Chắc ta cũng hiếu với ta khác gì.

Nếu mình ăn ở vô nghì,

Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.

Hoặc:

- Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận,

Ngỗ nghịch nào con có khác chi!

Xem thử trước thềm mưa xối nước,

Giọt sau, giọt trước chẳng sai gì!

- Người xưa khó nhọc nuôi mình,

Khác gì mình đã hết tình nuôi con.

Suốt một đời sống trong tình thương của cha mẹ, biết bao công khó cho con được nên người, bao lo lắng hy sinh, nhọc nhằn mong con được đầy đủ không thua bạn, kém bè. Nay cha mẹ không còn, đau đớn biết dường nào, dù nuối tiếc bao nhiêu cũng không làm sao được. Bạn hỡi! Ngay bây giờ hãy làm bất cứ điều gì có thể làm được cho cha mẹ để sau này có muốn cũng không thể nào thực hiện được:

- ... Độ nhỏ tôi không tin,

Người thân yêu sẽ mất.

Hôm ấy tôi sững sờ,

nghi ngờ trời đất.

Từ nay tôi hết thấy,

Trên trán mẹ hôn con.

Những khi con phải đòn,

Đau lòng mẹ la lẫy.

Kìa nhờ ai sung sướng,

Mẹ con vỗ về nhau.

Tìm mẹ, con không thấy,

Khi buồn biết trốn đâu?...

Hiếu đễ không phải là những lời đãi bôi, những xót xa không thật từ cửa miệng, những ao ước bâng quơ không bao giờ thực hiện, mà chữ Hiếu phải được thể hiện bằng những hành động cụ thể, bằng những chăm sóc, hầu hạ, phụng dưỡng xuất phát từ đáy tâm hồn với lóng thương quý chân thật.

Mùa Vu Lan là mùa báo Hiếu, mùa cho các người con tưởng nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, mong muốn làm điều gì tốt đẹp hơn để đền đáp xứng đáng công ơn dưỡng dục của mẹ cha. Nhớ ơn và báo Hiếu luôn luôn là những suy tư triền miên, sâu đậm trong thâm tâm mọi người con Việt.

- Phụng dưỡng Cha và Mẹ,

công đức tối thượng.

THÍCH NGUYÊN SIÊU

19/12/2007

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4135)
Hans Christian Andersen là một nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch, hay nói đúng hơn là của tuổi thơ. Ông sinh ngày 2 tháng 4 năm 1805 và mất ngày 4 tháng 8 năm 1875, thọ 70 tuổi.
(Xem: 4992)
Phần đông chúng ta đều có nghi vấn: “Tại sao chúng ta học Phật pháp nhiều mà tâm vẫn còn nhiều dính mắc, không buông xả hết được?
(Xem: 5545)
Đã biết chốn ni là quán trọ Hơn, thua, hờn oán.. để mà chi! Thử ra ngồi xuống bên phần mộ Hỏi họ mang theo được những gì..
(Xem: 4698)
Thưa sư, khi ta sử dụng từ ngữ để niệm khi hành thiền (parikamma), thông thường ta có nên đọc lớn lên không?
(Xem: 5681)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những lời bàn tántính cách phê phán như...
(Xem: 5315)
Phòng hộ sáu căn là một trong những pháp tu căn bản, quan trọng của hàng đệ tử Phật. Nếu sáu căn không được phòng hộ thì dẫu có ra sức dụng công nhiều, kết quả vẫn hạn chế, thậm chí hoài công như dã tràng xe cát mà thôi.
(Xem: 4234)
Chúng ta đang sống trong thời cách mạng thông tin. Nơi đó, lợi và hại cùng đi bên nhau, thiện và ác cùng sinh khởi dễ dàng từ một bàn phím.
(Xem: 4765)
Chỉ trong Phật Giáo mới có chuyện bất cứ ai cũng có thể trở thành Phật. Cho nên Phật dạy rằng có “Hằng Hà sa số chư Phật” và “Ta là Phật đã thành.
(Xem: 5578)
Nếu nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời là những nỗi khổ đau bất tận. Không khổ về thể chất thì cũng khổ về tinh thần.
(Xem: 4670)
Con đường tu hành vốn dĩ không bằng phẳng, nhiều chông gai, nếu không bền tâm vững chí thì lắm lúc cũng bị lung lay, chuyển hướng.
(Xem: 4988)
Quán tất cả chúng sanh là mẹ, là một pháp quán trong việc phát triển tâm Bồ-đề.
(Xem: 4389)
Như Thế Tôn nói cho Bổ-lạt-noa, người hành trì câu chi ngưu giới: “Viên mãn nên biết! Ở thế gian có một hạng Bổ-đặc-già-la tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại.
(Xem: 3921)
Trong mùa an cư, Phật tử tùy hỷ tu trong mùa này sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp. Vì mùa tu có nhiều người tu và có người đắc pháp, đắc quả thì đạo lực của họ sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của mình.
(Xem: 5664)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy, cầu nguyện mà không chịu...
(Xem: 5474)
Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”.
(Xem: 5264)
Một trong những lời dạy được biết đến nhiều nhất của thiền sư Luang Por Chah (Ajaan Chah) là sự buông bỏ.
(Xem: 5113)
Trong đây, hoặc hữu sắc[2] quán các sắc: vị ấy đối với nội phần, sắc tưởng cá biệt: chưa viễn ly, chưa cá biệt viễn ly, chưa điều phục, chưa cá biệt điều phục, chưa diệt tận, chưa phá hoại.
(Xem: 5968)
Lộ trình tu tập được Thế Tôn ví như khúc gỗ trôi sông, xuôi về biển Niết-bàn.
(Xem: 6045)
Tứ Diệu Đế (Cattāri saccāni) là bài giảng đầu tiên của Đức Phật cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe chánh pháp.
(Xem: 4297)
Ngày còn bán hàng rong ngoài đường, tôi gặp một phụ nữ, tuổi đã ngoài ba mươi. Mỗi lần chờ đi khách, chị hay ngồi nói chuyện với tôi. Người không xinh xắn, bụng lớn ngực lép, đi thì chân này đá chân kia, nhưng khá đắt khách.
(Xem: 5359)
Mục đích của đời người là gì? Đây là câu hỏi rất phổ biến mà người ta thường hay hỏi.
(Xem: 5336)
Khi những nỗ lực không được đáp trả thì hy vọng sự mầu nhiệm, phép mầuxu hướngcon người ta luôn hướng tới.
(Xem: 5152)
Khổng Tử nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”, con người sinh ra vốn lương thiện. Nhưng, Tuân Tử lại cho rằng: “Nhân chi sơ tính ác”, con người sinh ra bản tính vốn là ác.
(Xem: 4381)
Thu đã sang mà lá chưa vàng. Những cành cao vẫn còn sum sê tán lá. Thời tiết có vẻ bất thường.
(Xem: 5782)
Có phải khi thấy tánh Không thì không thấy gì hết? Có phải thấy “pháp tánh” thì không còn thấy các pháp
(Xem: 5523)
Vào sáng Chủ Nhật 14 tháng 7 2019, tại hội trường báo Người Việt (Westminster, Little Saigon) đã có một cuộc hội thảo với chủ đề tìm cách đem sự thực tập chánh niệm tỉnh thức đến với giới thanh thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam.
(Xem: 5941)
"Lý tưởng nhất là các lớp học không có cảm giác sợ hãicăng thẳng làm việc dạy và học trở nên nặng nề. Lý tưởng nhất là giáo viên tạo dựng được nề nếp học trong không khí êm ả và chú tâm của lớp học.
(Xem: 4904)
Lời dạy thường nhật của Thiền Tôngnhận ra tự tánh các pháp vốn rỗng rang vô tự tánh.
(Xem: 4788)
Bình yên và hạnh phúc chỉ đạt được khi con người biết quay về nội tâm của mình để an trú nơi đó như bến đỗ bình yên.
(Xem: 4743)
Ngoài việc phòng hộ bằng cách luôn chánh niệm tỉnh giác với thân hành, khẩu hành và ý hành, biết rõ xấu ác thì dừng lại không làm, thấy hiền thiện quả phước thì làm ngay
(Xem: 6080)
Hạnh phúc vì mình được biết Phật pháp, biết cố gắng hiểu lời Phật dạy, biết cố gắng hành theo những lời dạy đó và nhất là có thể chia sẻ với người khác những gì mình vừa tìm thấy.
(Xem: 5039)
Một đêm khi Shichiri Kojun đang tụng kinh thì một tên trộm với một thanh kiếm sắc nhọn bước vào, đòi đưa tiền nếu không...
(Xem: 3980)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
(Xem: 5149)
Trong cuộc sống không ít lần chúng ta buồn phiền khổ lụy, cũng có phút giây hạnh phút vui sướng. Nhưng sự buồn phiền đau khổ hay hạnh phúc vui vẻ đó đều do tâm tiếp nhận
(Xem: 6546)
Sự tu tập lấy sự xả bỏ mọi hình tướng, tư lương làm sự giải thoát trong bản thể tâm thanh tịnh an lành.
(Xem: 5017)
Một con người hạnh phúc không cần phảitôn giáo, nhưng nên bao gồm việc hành thiền trong đời sống hàng ngày của người ấy để trở thành một con người nhạy cảm.
(Xem: 6900)
đệ tử Phật, ai cũng biết bài kệ nổi tiếng, được xem là tinh túy, là tôn chỉ của giáo pháp Thế Tôn: “Không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, chính là lời Phật dạy”
(Xem: 4629)
Khổ đau hay hạnh phúc là hai trạng thái của tâm. Khi một điều bất như ý tới, tâm ta không thích bèn khởi sự chán ghét, buồn phiền, ân sầu. Cũng vậy khi một điều hỷ lạc tới thì tâm ta đón nhận trong tâm thế vui mừng, hạnh phúc.
(Xem: 4918)
Ở đoạn cuối kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi Phổ môn, Ma vương Ba-tuần bạch Đức Phật rằng nếu kinh này được lưu truyền ở đời thì...
(Xem: 4845)
Nhân quả như bóng theo hình, nghiệp báo cũng vậy theo ta như hình với bóng. Không ai chạy trốn được nghiệp cho dù lên núi cao hay xuống biển sâu.
(Xem: 5004)
Sở dĩ có các cõi và có các chúng sanh trong các cõi đó là vì nghiệp. Nghiệp là hành động, tức là hành động thuộc thân, khẩu, tâm của chúng sanh.
(Xem: 5625)
Như Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! ở đây, vị Thánh đệ tử, bằng đặc điểm như vậy tùy niệm chư Phật, nghĩa là vị Thế Tôn ấy là bậc Như Lai, A-la-hán, nói chi tiết cho đến: Phật Bạc-già-phạm”.
(Xem: 6143)
Mặc dù bài văn này khá dài, nhưng nghĩa lý viên mãn, người bị bệnh, người giải oan kiết áp dụng thì được lợi ích thiết thực.
(Xem: 6244)
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử lại nói với đại chúng: Cụ thọ nên biết! Đức Phật đối với mười pháp sau khi đã tự mình khéo thông đạt, hiện đẳng giác, liền tuyên thuyết khai thị cho các đệ tử[2].
(Xem: 5255)
Cuộc cách mạng này của người xuất sĩ đầy gian chuân, giống như người đi ngược chiều trong cơn bão tố, giống như người lái đò chèo ngược dòng chảy đang đầy dữ dội kia để tới đích cần phải đến.
(Xem: 5086)
Sống trên đời này, ai cũng đều có chỗ thấy biết, đó là một điểm không thể chối cãi.
(Xem: 5638)
Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh, Ngoài hư không có dấu chim bay? Từ tiếng gọi màu đêm đất khổ, Thắp tâm tư thay ánh mặt trời.
(Xem: 6489)
Đa phần khổ đau của chúng ta là do nhận thức sai lầm, vọng tưởng điên đảo, nói cách khác là do vô minh, nhận lầm nhửng huyễn ảo mà cho là thật.
(Xem: 4131)
Người Đi Hắt Bóng Trong Tâm Ảnh. Vài Suy Nghĩ Nhân Đọc Tập Thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” Của Nhà Thơ Nguyễn Lương Vỵ.
(Xem: 4052)
Trong khi cách nhìn phổ biến nói rằng khổ là có thực, rằng cần đoạn tận lậu hoặc để diệt khổ, vào Niết bàn… các hành giả Thiền Tông nhìn khắp pháp giới như tranh vẽ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant