Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình ảnh Phật Quan Âm trong thi ca Việt Nam

18 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 19825)
Hình ảnh Phật Quan Âm trong thi ca Việt Nam
HÌNH ẢNH PHẬT QUAN ÂM TRONG THI CA VIỆT NAM
Đào Nguyên

blank

Từ bi là một trong những đặc điểm tiêu biểu của đạo Phật. Trong sự gắn bó với đời sống của dân tộc Việt Nam cũng như với thi ca, một phần tính chất từ bi của đạo Phật đã được hình tượng hóa với hình ảnh Đức Phật Quan Âm, cụ thể hơn là Phật Bà Quan Âm.

Bài viết này, xin giới thiệu hình ảnh Phật Bà Quan Âm trong thi ca Việt Nam.

Chúng ta đều biết, Đức Bồ Tát Quan Thế Âm đã được nói đến trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn, đó là một nam nhân; trong khi hình ảnh được thờ phụng nơi chùa chiền Việt Nam, được truyền tụng trong dân gian và thể hiện qua thi ca, lại là một Phật Bà. Về điểm này, Nguyễn Lang viết:

Bồ Tát Quan Thế Âm được mô tả trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa là một nam nhân. Sang Tây Tạng, Trung Hoa và Việt Nam, Quan Thế Âm biến thành nữ nhân thân, trong lúc đó Phật tử các nước này vẫn tụng đọc kinh Pháp Hoa mà không thấy có sự mâu thuẫn. Lý dokinh Pháp Hoa có nói: "Nếu cần hiện ra thân gì mà cứu độ thì Quan Âm hiện ra thân đó, như thân quốc vương, thân tể tướng, thân nhi đồng, thân phụ nữ...". Cho nên bất cứ ở đâu xuất hiện một con người với lòng từ bi rộng lớn, là ở đó người ta cho là Đức Quan Âm hiện thân. Danh từ Quan Thế Âm (Avalokitesvara) có nghĩa là người lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời; lắng nghe để tìm tới mà cứu giúp..." (VNPGSLT, Nhà xb VH, H, 1992, tr 99).

Vậy hình ảnh Phật Bà Quan Âm đã thể hiện trong thi ca Việt Nam như thế nào? 

- Ca dao Việt Nam có câu:

"Cha già là Phật Thích Ca
Mẹ già như thể Phật Bà Quan Âm
Nhớ ngày xá tội vọng nhân
Lên chùa lễ Phật, đền ơn sinh thành"

- Hình ảnh Phật Bà Quan Âm cũng được tác giả Truyện Phan Trần nhắc đến, qua hình dạng ni cô Diệu Thường-tức Phan Kiều Liên sau khi vào chùa tu - với cái nhìn của Phan Tất Chánh:

"Thẩn thơ trước dãy hành lang
Vin cành biếc, hái hoa vàng, làm thinh
Xa xa phảng phất dạng hình
Đức Quan Âm đã giáng sinh bao giờ..."
(Truyện Phan Trần, câu 389-392, theo bản của sách VNTVHT của Dương Quảng Hàm, bản in 1968, tr.18)

- Trong tác phẩm "Sơ kính tân trang", Phạm Thái (1777-1814) đã hai lần nhắc tới hình ảnh Phật Quan Âm:

"Tu hành nhờ Đức Thế Tôn
Ắt say sưa đạo lại buồn bồng duyên
Lọ là khấn vái tiên thiên
Cậy Quan Âm với Mục Liên xót tình..."
(SKTTr, câu 1141-1142, sđd, tr 135).

- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) qua tác phẩm Lục Vân Tiên, cũng hai lần giới thiệu Phật Bà Quan Âm:

Quan Âm thường đứng thảo ngay
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa
Dặn rằng nàng hỡi Nguyệt Nga
Tìm nơi nương náo cho qua tháng ngày
Đôi ba năm nữa gần đây
Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi..."
(Truyện Lục Vân Tiên, câu 1523-1528, theo bản trong sách NĐC toàn tập, T1, Nhà xb ĐH và THCN, H 1980, tr.153).

Đó là đoạn nói Kiều Nguyệt Nga, trên đường đi cống Hồ đã nhảy biển trầm mình cho tròn tiết nghĩa với người bạn tình cũ, được sóng thần đẩy vào nơi bãi và được Phật Bà Quan Âm xót thương đem nàng đến nơi chốn cao ráo, sạch sẽ... Sau này khi bỏ trốn khỏi nhà cha con Bùi Kiệm, Nguyệt Nga trong cảnh đêm tối tăm mờ mịt, đã gặp được bà lão cưu mang, thì chính bà lão ấy cũng đã được Phật Quan Âm mách bảo trước:

"Người ngay trời Phật cũng vưng
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra
Hỏi rằng nàng phải Nguyệt Nga
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta
Khi khuya nằm thấy Phật Bà
Người đà mách bảo nên già đến đây..."
(Truyện LVT, câu 1651-1656, sđd, tr 159).

-Nếu ngược về với không khí Thiền học đời Trần (1225 - 1400), chúng ta cũng sẽ gặp hình ảnh Đức Phật Quan Âm.

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291), trong bài thơ "Lui về (Thối cư), đã viết:

"Thẹn bao mình đục sinh thời đục
Nhờ chút lòng yên gặp nước yên
Đêm mộng Quan Âm vào cỏ nội
Sông thu trong vắt dáng sương huyền".
(Trúc Thiên dịch, Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, ĐH Vạn Hạnh xb, S, 1969, tr 167).

Đối với vua Trần Nhân Tông, tức Trúc Lâm đệ nhất Tổ (1258-1308), hình ảnh Phật Quan Âm còn có thể tạo nên sức khơi gợi lớn giúp kẻ tu hành đạt đạo. Trong buổi tham vấn Thiền học tại chùa Sùng Nghiêm, một vị Tăng hỏi: "Bậc tu hành lớn còn có thể rơi vào vòng tròn nhân quả nữa chăng?"

Điều Ngự đã đáp bằng bốn câu kệ:
"Miệng tợ huyết hồng phun Phật, Tổ
Răng như gươm bén đốn thiền lâm
Sáng kia chết xuống A Tỳ ngục
Vội niệm Nam mô Quan Thế Âm".
(Dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL, t1, Nhà xb Lá Bối, S, 1974, tr 321)

- Chùa Diên Hựu còn gọi là Liên Hoa đài hay Nhất Trụ tự (chùa Một Cột) được xây dựng vào năm 1049 đời vua Lý Thái Tông (1028-1054) với hình ảnh một đóa hoa sen mọc từ dưới nước lên. Cuối thế kỷ XVIII, danh sĩ Trần Bá Lãm đã có bài thơ, không chỉ là ca ngợi cảnh đẹp mà còn ngợi ca tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế Âm:

"Xóm hoa trong thành, chùa trong xóm
Danh là Diên Hựu, Lý triều xây
Trong cung hòa hợp mộng hoàn tử
Bồ Tát Quan Âm mới linh thay"
(Nguyễn Đăng Thục dịch, Phật giáo Việt Nam, Nhà xb Mặt Đất, S, 1974, tr 79)

-Tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế Âm còn gắn liền với những sinh hoạt bình thường của người dân Việt Nam và cũng được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhà thơ của chùa Hương, nhắc đến:

"...Mẹ bảo đường còn lâu
Cứ vừa đi vừa cầu
Quan Thế Âm Bồ Tát
tha hồ đi mau..."
(Bài Chùa Hương, dẫn theo Thi ca VN hiện đại, Khai Trí xb, S, 1968, tr 238).

-Trong văn chương chữ Nôm, hai tác phẩm trường thiên viết về sự hóa thân của Phật Bà Quan Âm được truyền tụng khá sâu rộng trong dân gian Việt NamQuan Âm Nam Hải và Quan Âm Thị Kính.

* Quan Âm Nam Hải gồm 1426 câu thơ lục bát, giới thiệu về quá trình dốc chí tu Phật của công chúa Diệu Thiện-được gọi là Bà Chúa Ba-con gái út của vua Trang Vương với nơi chốn tu hànhđắc đạo là chùa Hương Tích:

"Đức Phật mới chỉ đường tu
Rằng có một chùa tại Hương Tích sơn
Gần biển Nam Việt thanh nhàn
Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành ..."
(Dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL, 72, sđd, tr 102).

* Quan Âm Thị Kính gồm 788 câu thơ lục bát, lời thơ chải chuốt, bác học hơn. Tác giả hẳn là một người am hiểu cả Nho, Phật, viết về cuộc đời Thị Kính với đức tính Nhẫn nhục và Từ bi-hiếu sinh, nhờ đấy mà bà đã đắc đạo. Nhà văn Vũ Khắc Khoan đã có những nhận xét rất xác đáng về nội dung tư tưởng của tác phẩm:

"Tư tưởng Phật giáo lại càng tỏ rõ khi Thị Kính cam chịu tiếng oan, vì lòng từ bi, vì đức hiếu sinh, hy sinh cuộc sống của mình để nuôi đứa bé sơ sinh của Thị Mầu. Nỗi oan mưu sát chồng đã đưa Thị Kính đến con đường giải thoát, nỗi oan quyến rũ Thị Mầu không làm cho nàng nản chí trên con đường giải thoát; nhưng chính lòng từ bi, đức hiếu sinh, chính hành động tích cực nuôi con Thị Mầu mới thực sự đưa nàng lên cõi giải thoát.

Trên hành trình vượt sông mê để cập bến giác, tinh thần Phật giáo đã là một ngọn hải đăng soi sáng bước chân Thị Kính. Để Thị Kính trở thành Tiểu Kính Tâm, để tiểu Kinh Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm". (Lời giới thiệu của sách "Vở chèo Quan Âm Thị Kính, Nhà xb Đào Tấn, S, 1966, tr 14).

Hình ảnh Quan Âm Thị Kính còn bước sang lãnh vực sân khấu chèo, với nhiều kịch bản chèo được lưu hành khá rộng rãi trong dân gian. Bản in "Vở chèo Quan Âm Thị Kính" do Nhà xb Đào Tấn ấn hành năm 1966 do Vũ Khắc Khoan giới thiệu, là bản in được hình thành do sự góp trí nhớ của nhiều nghệ sĩ ngành chèo và một số bạn hữu vốn hâm mộ bộ môn này. Chèo Quan Âm Thị Kính là một trong số ít vở chèo cổ nổi tiếng.

Tóm lại, từ ca dao đến thơ, từ thơ đến Nôm, kịch bản chèo, hình ảnh Đức Phật Quan Âm gắn bó đậm đà với văn học nghệ thuật Việt Nam vậy.
Đào Nguyên

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1832)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1911)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1782)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2151)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2128)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2266)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1755)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2079)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1784)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1767)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1936)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1941)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1593)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1769)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2115)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1859)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2460)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1766)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1768)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1730)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2178)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1995)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2140)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1671)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2287)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1621)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1916)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1813)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1867)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1704)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2452)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2167)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2105)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1914)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2292)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1875)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1954)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2200)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1720)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1979)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1995)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2202)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1975)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1806)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1786)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1805)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1915)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2213)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1751)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1715)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant