Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Luật - Tiếng Nói Từ Nguồn Tâm

04 Tháng Bảy 201414:03(Xem: 11357)
Giới Luật - Tiếng Nói Từ Nguồn Tâm


GIỚI LUẬT

TIẾNG NÓI TỪ NGUỒN TÂM

Tuệ Hải - Thích Quảng Văn

Luật tạng là một trong ba tạng giáo điển của Phật giáo, và giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự duy trì cũng như sự phát triển giáo đoàn Phật giáo trong suốt hơn hai nghìn năm trăm năm qua.

Điều này đã được khẳng định bằng chính lời của Đức Thế Tôn khi Ngài trả lời tôn giả A Nan về câu hỏi rằng : “Sau khi như lai diệt độ chúng con biết nương tựa vào đâu và thờ ai làm thầy ?Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.” Lời phó chúc ấy hẳn là một minh chứng hùng hồn khẳng định tính trọng yếu của giới luật đối với sự tồn vong của đạo pháp.

Bất cứ một đoàn thể hay một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển thì cũng cần phải có nội quy và điều luật riêng của nó. Phật giáo cũng không ngoài quy luật ấy.

Như chúng ta biết, sau khi thành lập giáo đoàn, trong suốt mười hai năm đầu đức Phật chưa chế định giới luật. Các tỳ kheo lúc ấy chỉ tu tập bằng cách truyền dạy trực tiếp từ kim khẩu của Đức Thế Tôn và chủ yếu là tu tập định cộng giới và đạo cộng giới. Bởi vì, trong những năm đầu tiên này, giáo đoàn phần lớn là những bậc căn cơ cao, một lòng tu tập tiến đến giải thoát và đa phần đều đã chứng quả.

Nhưng đến năm thứ mười ba, thì pháp hữu lậu bắt đầu phát sinh trong giáo đoàn. Sự thanh tịnh của tăng không còn được bảo đảm một cách toàn vẹn. Vì vậy, giới luật được chế định trong lúc này là một điều tối cần thiết để bảo hộ cho sự thanh tịnh của tăng đồng thời để bảo đảm cho một hành giả trên lộ trình tu tập đoạn trừ dục lạc tiến đến con đường thoát ly sinh tử.

Giới luật Phật giáo được chế định với ba mục đích chính: thứ nhất là ngăn chặn những điều gì làm ngăn trở con đường thánh đạo. Trong giáo đoàn, nếu có bất cứ một điều gì xảy ra mà nó gây tác hại cho hành giả trên phương diện tu chứng, hay thiền định thì đức Phật đều chế giới.

Việc chế giới này được đức Thế Tôn thực hiện theo tinh thầntuỳ phạm tuỳ chế”. Nghĩa là có một pháp hữu lậu phát sinh gây bất lợi cho chính bản thân hành giả và cho tăng thân thì Phật mới chế giới. Đức Phật không bao giờ chế định những điều gì mà nó chưa hề xảy ra trong cộng đồng các tỷ khiêu. Đức Phật hoàn toàn không đem giới luật để áp đặt cho đệ tử của Ngài.

Điều thứ hai khiến Đức Thế Tôn chế giới chính là những gì làm ảnh hưởng gây sự xáo trộn trong sinh hoạt của Tăng đoàn. Bởi vì, bản thể của tăng là thanh tịnh hoà hợp. Sự thanh tịnh hoà hợp này chính là sức sống là huyết mạch để quyết định sự tồn vong của tăng đoàn. Có duy trì đựơc một tăng đoàn hoà hợp, thanh tịnh thì đó mới xứng đáng là hàng tăng bảo làm chỗ quy ngưỡng vững chắc, tôn kính cho hàng tại gia cư sĩ.

Một giáo đoàn nếu chỉ gồm những tỷ khiêu ham mê dục lạc, đua đòi theo kẻ thế tục, làm những điều không nên làm, không màng đến sự chê bai của thế gian, thì chắc hẳn giáo đoàn đó sẽ không thể tồn tại lâu dài. Điều ấy không những làm mất sự tín tâm của người đời đối với Phật pháp mà còn nhanh chóng đưa Phật giáo đến chỗ hoại diệt. Chính vì vậy, mục đích thứ ba mà Đức Thế Tôn chế định giới luật là tránh sự cơ hiềm của người thế tục. Tránh sự cơ hiềm ấy chính là để bảo đảm cho sự thanh tịnhhoà hợp của tăng đoàn.

Giới luậtĐức Phật chế định ra cho hàng đê tử thọ trìhoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, không hề ép buộctuyệt đối không áp đặt cho một cá nhân nào. Ai thọ trì thì người ấy được lợi ích. Bởi vì công năng của giới luật chính là “phòng phi chỉ ác” , giúp cho hành giả tránh được mọi hố hầm của tội lỗi thẳng tiến đến bờ giải thoát giác ngộ. Trong đó nếu vị nào thọ trì thì đều có được những lợi ích sau đây:

1. Nhiếp thủ ư tăng: Vì kiện toàn tăng già thành chúng thanh tịnh.
2. Linh tăng hoan hỷ : Vì tu hành phạm hạnh nên thiện tâm tăng trưởng khiến được hoan hỷ với nhau.
3. Linh tăng an lạc : Khiến cho tăng được an lạc.
4. Linh vị tín giả tín : Khiến cho người chưa tin được tin.
5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng : Đối những người đã tin khiến cho lòng tin họ thêm tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều : Người khó điều phục khiến họ được điều phục.
7. Tàm quý giả đức an lạc: Khiến ngưòi biết hổ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu : Đoạn hết phiền nãohiện tại.
9. Đoan vị lai hữu lậu : Đoạn trừ phiền não trong tương lai.
10. Linh chánh pháp cửu trụ : Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Có được những lợi ích này thông qua việc tu tập giới, chính là do giới luật được thiết lập trên hai nền tảng căn bản. Đó là từ bitrí tuệ. Từ bitrí tuệ chẳng những là nền tảng căn bản của giới luật mà còn là nền tảng căn bản cho toàn bộ tam tạng giáo điển của phật giáo.

Chúng ta biết rằng toàn bộ giới luật Phật giáo được chế định trên thất chi của thập ác nghiệp. Do vì ác pháp phát sinh nên giới luật được chế định để phòng hộ cho chính bản thân hành giả cũng như mang lại sự an bình cho tha nhân. Chẳng hạn như chúng ta giữ giới không sát sinh thì bản thân người trì giới đoạn trừ được sân tâm, tăng trưởng lòng từ bi, tránh được những tội lỗinghiệp quả do nghiệp sát gây ra. Tha nhân cũng như các loài khác đều được an ổn, sống trong sự bình yên không sợ hãi. Bằng trí tuệ cao siêu Đức Phật thấy rõ được giới nào có thể đem lại cho người tu tập sự an lạc, lợi ích và có thể dẫn đến con đường giải thoát tối hậu, đồng thời không trói buộc hay ngăn trở thánh đạo. Không như giới điều của ngoại đạo mê chấp sai lầm, không mang lại lợi ích cho con đường tu tập giác ngộ giải thoát.

Mục đích của giới luật là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giúp cho người tu tập đạt được an lạc trong từng bước đi. Giới luật được hiểu đúng nghĩa không phải là những giới điều trói buộc, gây phiền phức cho người thọ trì giới, mà giới luật Phật giáo rất linh động uyển chuyển tuỳ theo mỗi hoàn cảnh quốc độ, tuỳ theo từng không gianthời gian mà thay đổi ít nhiều để phù hợpthích nghi. Bằng chứng là trong 250 giới của tỷ khiêu có chia làm năm thiên thất tụ, tiêu biểu cho những mức độ khinh trọng khác nhau. Trong những điều giới đó lại có sự khai mở cho những trường hợp đặc biệt khi phạm phải thì không mắc tội.

Đơn cử như giới “không được đứng tiểu tiện” . Vì hàng cư sĩngoại đạo chê trách rằng đệ tử của sa môn Cồ Đàm đều là những người thô tháo, thiếu lịch nhã, nên Phật cấm không cho đệ tử đứng tiểu tiện. Nhưng khi các tỳ kheo đến một quốc độ khác giáo hoá thì họ cho rằng sa môn Thích tử giống như đàn bà ngồi mà tiểu tiện không có tướng trượng phu. Lúc đó đức Phật lại cho phép các tỷ khiêu đứng tiểu tiện. Những điều như thế được ghi chép rất nhiều trong luật tạng.

Như vậy, ta thấy rằng giới luật Phật giáo đâu phải chỉ là những giới điều cứng nhắc, cố chấp mà rất uyển chuyển, như chính lời của Đức Thế Tôn đã xác minh trong Ngũ Phần Luật: “ Phật dạy : tuy là điều giớ ta chế nhưng phương khác chẳng cho là thanh tịnh đều chẳng nên dùng. Tuy chẳng phải điều ta chế, nhưng phương khác cần phải làm thì chẳng được chẳng làm”. Vậy thì, giới luật trong giáo lý Phật giáo không phải là những điều cố chấp, cứng nhắc mà hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, thiết thực đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.

Giới luật từ khởi thuỷ được chế định chung cho tất cả những ai muốn tu tập theo hạnh giải thoát. Bất cứ một đối tượng nào nếu đủ điều kiện thoát ly sự ràng buộc của gia đình gia nhập tăng đoàn đều phải tuân theo. Bởi giới luật là một điều kiện trọng yếu để bảo trì giới thể cho một tỳ kheo như pháp. Nếu không thọ trì giới luật một cách nghiêm mật thì bản thể thanh tịnh của một tỳ kheo khó có thể được bảo toàn.

Chính vì vậy, trách nhiệm học giớitu tập giới là bổn phận của mỗi một tỷ khiêu. Do đó, giới luật không phải là một bộ môn học hay một tông phái riêng biệt mà ai thích thì theo. Vì rằng điều kiện để trở thành một tỷ khiêu như phápbạch tứ yết mathọ trì giới pháp. Vô tác giới thể của một tỷ khiêu được thành tựu là do bạch tứ yết ma, nhưng để giữ gìn được bản thể thanh tịnh đó lại là công năng của giới. Chúng ta không thể trở thành một tỷ khiêu như pháp nếu không nghiêm trì giới luật.

Trên con đường tiến đến đạo quả bồ đề, giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng nếu không muốn nói là yêu tố quyết định. Đó chính là nền tảng là giềng mối cho sự tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Tính trọng yếu của giới luật một lần nữa lại được xác quyết và khẳng định bằng bài kệ:

Dục tu vô thượng bồ đề
Tiên tắc nghiêm trì giới luật
Giới luật nhược bất nghiêm trì
Bồ đề chung bất thành tựu”

Mỗi một tăng sĩ chúng ta hãy tinh tiến nỗ lực tu tập, hành trì giới luật để tự thăng hoa đời sống của chính mình và cũng là để kiện toàn một tăng đoàn thanh tịnh hoà hợp ngõ hầu duy trì mạng mạch Phật pháp.

Tuệ Hải - Thích Quảng Văn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1899)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1764)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2137)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2119)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2256)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1751)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2076)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1775)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1760)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1926)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1937)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1588)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1763)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2112)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1856)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2443)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1758)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1753)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1720)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2163)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1987)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2129)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1659)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2278)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1612)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1906)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1801)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1858)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1700)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2449)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2157)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2100)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1901)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2281)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1863)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1947)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2192)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1704)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1977)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1984)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2191)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1971)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1796)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1778)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1793)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1907)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2198)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1740)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1711)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2272)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant