Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng Ly Chúng Tăng Tàn

06 Tháng Tư 201507:35(Xem: 11511)
Tăng Ly Chúng Tăng Tàn

TĂNG LY CHÚNG TĂNG TÀN

Khải Tuệ


Tăng Ly Chúng Tăng TànMột bậc đế vương xuất hiện, muôn nghìn quân sĩ rạp mình tung hô vạn tuế, một thế chuyển mình của sư tử chúa sơn lâm, muôn loài cầm thú kinh sợ thu mình thần phục. Bậc đế vương uy danh lừng lẫy khi quanh vị ấy có đầy đủ cung vàng điện ngọc, ấn triện, thế lựcvăn võ bá quan, khi tất cả lìa xa vị ấy thì vị ấy chỉ còn là một người bình thường, bình thường như bao người dân thường khác.

Chúa tể sơn lâm chỉ là chúa tể khi nó ngự trị trong núi rừng, trong thâm sơn cùng cốc của muôn ngàn dã thú, khi đã bị đưa đến chốn thị thành thì cọp chỉ còn biết quẩn quanh cùng một khối căm hờn trong củi sắt của thảo cầm viên và ăn những thức ăn do con người mang đến như bao loài thú hèn mọn khác.

Sự vật trên thế gian này vốn là như vậy, một thực thể chỉ là một thực thể mang tên này khi nó được kiện toàn bởi những nhân duyên, những chánh báoy báo tạo nên nó, mỗi khi đã thoát ra khỏi những điều kiện này thì ắt hẳn không còn mang tên đó nữa, bởi thiếu điều kiện, thiếu nhân duyên, nói đúng hơn là thiếu hay lãng quên khả năng phòng hộ và thiếu sự phòng hộ từ cộng đồng. Xuất phát từ ý nghĩa đó, cổ đức trong nhà Phật đã có một câu nói mà trong giới xuất gia ai cũng biết đó là “hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn”.

Tăng, nói đầy đủ là tăng-già xuất phát từ chữ sangha của tiếng Phạn, thường được xuất hiện để chỉ cho đoàn thể xuất gia đệ tử đức Phật từ bốn người trở lên, sống hòa hợpthanh tịnh đúng như giới luậtđức Phật đã chế định để hướng mục tiêu của mình đến đời sống giác ngộgiải thoát phiền não khổ đau. Một vị tỳ-kheo chỉ được xem là thành viên của Tăng già khi hội đủ các điều kiện của một thành viên xuất gia đệ tử của đức Phật, chấp nhận đời sống không gia đình và hướng đời mình đến sự nghiệp giải thoát, dẹp trừ cái “tôi” và “của tôi” để khép mình vào tăng đoàn, xây dựng nên bản thể thanh tịnhhòa hợp của tăng già.

Xuất phát từ những ý nghĩađiều kiện đó nên, cổ đức trong nhà thiền đã ví von bằng hình ảnh con hổ lìa rừng, cho thấy sự thất bại của một tỳ-kheo khi chấm dứt mối liên hệ với tập thể tăng già, quay lưng lại với bản thể hòa hợpthanh tịnh như pháp như luật của tăng. “Tăng li chúng tăng tàn” ắt hẳn ở đây chỉ cho thành viên tăng rời khỏi khối hòa hợpthanh tịnh của đại chúng, ắt hẳn sẽ thất bại, sẽ biến đổi, sẽ tàn lụi bởi mất đi khả năng phòng hộ của một thành viên tăng và mất đi sự phòng hộ từ chúng tăng.

Vào thời đức Thế Tôn còn tại thế, khi hệ thống tu viện chưa được áp dụng rộng rãi như bây giờ, các tỳ-kheo sống theo phương thức khất thực và ngủ dưới gốc cây độc cư nhàn tịnh, nhưng không phải vì thế mà độc lập tách biệt khỏi chúng tăng, trái lại, tinh thần chúng tăng, tức tinh thần thanh tịnhhòa hợp vẫn luôn được các tỳ-kheo tôn trọngtuân thủ một cách nghiêm túc, dù đi đâu, ở đâu, hành đạo như thế nào cũng luôn giữ một mối liên hệ mật thiết với Tăng ít nhất là qua hình thức bố-tát mỗi nửa tháng một lần. Vào những ngày 15 sáng trăng, các tỳ-kheo nhóm họp theo tinh thần thanh tịnhhòa hợp của chúng tăng để đọc tụng giới luật và nhắc lại những lời Phật dạy, sám hối sửa sai cho nhau, mối liên hệ đó là sợi dây vô hình nhưng vững chắc, gắn kết tất cả thành viên xuất gia đệ tử Phật trở thành một khối thống nhất đi đúng đường, đúng mục đích xuất giađức Phật đã dạy.

Hình thức bố-tát đó cộng với pháp an cư là hai phương thức duy trì mối liên hệ của tăng. Mặc dù có duyên khởi là các tỳ-kheo dừng lại một trú xứ tránh du hành trong nhân gian để khỏi giẫm đạp côn trùng, pháp an cư đã trở thành một hình thức rất hữu ích trong việc duy trì mối liên hệ với tăng. Suốt mấy tháng mùa mưa, chúng tăng tập trung lại một chỗ, hạn chế sự đi lại đến tối thiểu và dành toàn bộ thời gian cho việc tu tập, ôn lại những lời dạy của đức Thế Tônthực hành pháp ấy dưới sự hộ trì của chúng tăng. Hình thức sinh hoạt tu học cùng đại chúng như vậy là hình thức tối ưu trong việc học tập kinh nghiệm, hoàn thiện bản thân, một pháp hành cần phải thực tập để rút ra kinh nghiệm thì thay vào đó sự lịch nghiệm của nhiều người trong tăng chúng đưa đến lời khuyên đúng đắn thay vì tự thân phải dọ dẫm từng bước một.

Quan trọng hơn, hình thức tu học cùng đại chúng là cơ hội tốt nhất để một cá nhân tăng sĩ bào mòn dần đi bản ngã của mình, sống trong một môi trường của đại chúng, các thành viên đều tự gọt giũa mình để hòa vào cái chung của đại chúng, mà cái gì thuộc đại chúng là của tất cả mà cũng không của riêng ai. Như vậy, pháp bố tátan cư là hai hình thức điển hình biểu hiện bên ngoài của đoàn thể tăng, tuy nhiên, bản thể tăng chỉ được thành tựu khi và chỉ khi nó có ý nghĩa đoàn thể ấy sống hòa hợpthanh tịnh đúng với mục đíchlý tưởng của một đoàn thể tỳ-kheo đệ tử Phật xuất gia sống đời phạm hạnh để thành tựu quả vị giải thoát cuối cùng và rao giảng pháp ấy làm lợi lạc cho tha nhân.

Tăng li chúng tăng tàn ắt hẳn không thể là sự quy kết một thành viên tăng chỉ xa lìa đại chúng là bị tàn lụi bị hủy diệt, mà đúng hơn là thành viên đó rời khỏi sự thanh tịnhhòa hợp của chúng tăng, thành viên đó không tôn trọng sự thanh tịnhhòa hợp, nói cách khác là không giữ mình trong bản thể của tăng, không góp mình xây dựng nên bản thể thanh tịnh hòa hợp của tăng, không sống đúng như giới như luật, như chánh phápThế Tôn dạy bảo cho đời sống của tỳ kheo, thì vị ấy dù có sống trong tăng già cũng không thể nào hòa hợp, không thể nào thanh tịnh hợp với bản thể của tăng và dĩ nhiên không thể tạo nên thể thanh tịnhhòa hợp với chúng tăng đúng pháp. Kẻ ấy tự mình quay lưng lại với bản thể của tăng, quay lưng lại với thể thanh tịnhhòa hợp, mất đi khả năng phòng hộ bởi thiếu giới luật và mất đi sự phòng hộ của chúng tăng bởi đã mất sự liên hệ với bản thể của tăng già.

Chính vì ý nghĩa của tăng và thành viên tăng như vậy nên giáo pháp đức Phật không hề mâu thuẫn khi ngài khuyến khích hạnh độc cư nhàn tịnh của các tỳ-kheo và xem đó là hạnh lành tối thắng để một tỳ-kheo đạt đến mục đích tối thượng của mình, bởi sự độc cư đó không độc lập khỏi chúng tăng, không quay lưng với bản thể thanh tịnhhòa hợp của chúng tăngtrái lại nó góp phần cho khối thanh tịnh của tăng già thêm càng thanh tịnh, kết quả tu tập ấy là mục đích chung của tất cả tăng già. Một đoàn thể được gọi là tăng khi đoàn thể ấy sống đúng với bản chất thanh tịnhhòa hợp của tăng, đúng với mục đích chung của chúng tăng, chứ không chỉ là hình thức của một đoàn thể nhóm họp lại trong cùng một trú xứ nhưng không cùng nhau xây dựng nên được một bản thể thanh tịnh. Và lời khuyến khích sau đây của đức Phật kêu gọi các tỳ-kheo lên đường lưu truyền chánh pháp vì vậy cũng nằm trong sự nối kết của tăng, trong mục đích chung của tăng giàđời sống như vậy là đời sống hòa hợp với bản thể của tăng. “Này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy đi, vì sự lợi ích, vì sự an lạc của nhiều người; vì lòng thương tưởng thế gian; vì sự ích lợi, sự an lạc của chư thiênnhân loại. Chớ đi với hai người cùng một đường.” (P. Caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussanāṃ. Mā ekena dve agamittha).

Xuất phát từ bản thể thanh tịnhhòa hợp, mối liên hệ giữa cá nhântăng đoàn nới rộng phạm vi không gian, dù có đi đâu ở đâu, là thành viên của trú xứ nào đi nữa thì cũng đều được nhiếp thủ thành thành viên của chúng tăng, của một thể thống nhất cùng một mục đích chung của đạo pháp.

Tăng tàn trong ý nghĩa thiếu đi khả năng phòng hộ và mất lực phòng hộ từ tăng già khi một tỳ-kheo xa rời đại chúng với một mục đích không cùng mục đích của tăng, vì một lợi ích không nằm trong lợi íchtăng già hướng đến, không vì sự an lạc của nhiều người, không vì lòng thương tưởng đến thế gian và cũng không vì con đường độc cư nhàn tịnh để cần cầu quả bồ-đề vô thượng. Vị tỳ-kheo ấy sống buông lòng theo dục lạc hay theo những mục đích đem đến lợi lạc cho cái tôi và cái của tôi. Vị ấy ắt hẳn mất đi sự phòng hộ bởi không khép mình trong pháp và luật của Phật chế định, mất lực phòng hộ của tăng già bởi chấm dứt sự liên hệ với tăng già, bởi không thể nhiếp mình trong bản thể thanh tịnh hòa hợp của tăng.

Với ý nghĩa của bản thể tăng như vậy, một cá nhân không khép mình bằng một cái tâm mềm mại nhu nhuyến nhờ công phu tu tập bào mòn bản ngã và từ chối sự cộng tác tạo thành thể hòa hợp với chúng tăng đúng pháp đúng luật đúng lời Phật dạy, sự tách biệt đó dù với một lý do gì đi nữa cũng đã chứng minh sự thất bại của một thành viên tăng. Bởi một cá nhân chỉ được xem là thành viên của tăng già khi sống cùng một hướng và tạo thành một thể với tăng. Trên cùng bản thể đó và duy nhất nhờ vào bản thể đó tăng già đã trở thành Tăng Bảo trong ba ngôi tam bảo Phật Pháp Tăng mà trời người quy y tôn ngưỡng. Một bản thể quý báutrang nghiêm như vậy, ắt hẳn một kẻ có trí không vì sự bất mãn riêng tư mà quay lưng tự mình lìa bỏ, và ắt hẳn một người con Phật chơn chánh mang trong mình hoài bảo trùng hưng tam bảo tại thế gian lại từ chối xây dựng trang nghiêm thể hòa hợp thanh tịnh của hàng Tăng Bảo.

(Tạp chí Chuyển Luân – 2/2009)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1830)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1909)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1777)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2150)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2127)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2261)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1754)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2077)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1784)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1767)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1931)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1939)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1592)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1768)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2115)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1859)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2458)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1766)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1764)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1730)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2172)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1992)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2139)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1667)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2283)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1621)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1912)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1811)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1866)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1703)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2451)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2167)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2105)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1913)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2291)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1875)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1954)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2199)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1716)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1979)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1995)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2201)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1972)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1806)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1786)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1804)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1914)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2212)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1748)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1715)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant