Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhận Thức Về Khổ

28 Tháng Sáu 201417:58(Xem: 9820)
Nhận Thức Về Khổ

Nhận Thức Về Khổ


blankMột trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.

Nhiều người cho rằng thế gian đâu hoàn toàn khổ như Phật nói; thế gian có khổ có vui đan xen lẫn nhau, nói thế gian chỉ hoàn toàn khổ là thái độ bi quan tiêu cực! Quả thật về mặt tương đối, thế gian không chỉ có khổ mà còn có vui. Người ta cảm thấy sung sướng, hạnh phúc khi được thỏa mãn những nhu cầu, được đáp ứng các ham muốn. Ví dụ người ta cảm thấy sung sướng, hạnh phúc khi ăn ngon mặc đẹp, khi được yêu thương, khi được hưởng thụ các thú vui, khoái lạc v.v. Nhưng tại sao Đức Phật lại cho thế gian là khổ? Vì những thú vui ở thế gian đều tạm bợ, không bền chắc, không lâu dài. Người đói cảm thấy sung sướng khi được ăn no, nhưng cảm giác hạnh phúc đó không tồn tại được bao lâu một khi anh ta ăn quá no hoặc được ăn nhiều lần một loại thức ăn (anh ta sẽ sinh cảm giác ngán, nhàm chán), hoặc khi anh ta bị đói trở lại thì cảm giác hạnh phúc cũng không còn. Người được yêu thương sẽ rất hạnh phúc, nhưng sau một thời gian sẽ có cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, không còn hạnh phúc như lúc ban đầu; hoặc theo thời gian, thân người sẽ già nua, nhan sắcsức khỏe suy tàn, tình cảm cũng thay đổi, lúc đó hạnh phúc không còn nữa. An lạc, hạnh phúc của thế gian tùy thuộc nhiều yếu tố nhân duyên, nó là thứ an lạc, hạnh phúcđiều kiện, nó có ý nghĩa, giá trị hết sức tương đối, luôn luôn trong tình trạng biến đổi vô thường. Đi trên đường phố, giữa dòng người tấp nập ngược xuôi, có những người đang đau khổ vì chồng, có những người đang đau khổ vì vợ, có những người đang đau khổ vì con, vì cháu; có những người đang đau khổ vì tiền bạc, vì sự nghiệp, vì danh tiếng; có những người đang đau khổ vì tình yêu v.v. Không ai là không có nỗi lo lắng, khổ tâm trong lúc này hoặc lúc khác, dù người đó giàu có hoặc quyền cao chức trọng, dù người đó thành đạt hay thất bại trên đường đời, không ai hoàn toàn hạnh phúc. Cũng có số ít người toại nguyện với cuộc sống của mình, thỏa mãn với hạnh phúc đang có, nhưng hạnh phúc đó cũng không ở lại với họ lâu dài, và cũng có lúc họ rơi vào bất mãn, thất vọng, khổ đau. Do đó có thể hiểu vì sao Phật cho rằng thế gian là khổ. Về cơ bản có tám cái khổ lớn mà không ai tránh khỏi, đó là: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, mong cầu không được, ước muốn không đạt thành nên khổ, oán ghét mà gặp nhau nên khổ, thương yêu mà phải xa lìa (sinh ly, tử biệt) nên khổ, năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức không điều hòa, bức bách nên khổ.

Thấy bản chất thế giankhổ không phải để buồn, để khổ thêm nữa, không phải để chán nản, bi quan tiêu cực, muốn xa lánh cuộc đời, không màng gì đến cuộc sống. Mục đích Đức Phật nói về sự khổ là để chúng sinh lìa tham đắm, không rơi vào đời sống sa đọa chỉ biết hưởng thụ các khoái lạc. Sau khi giúp chúng sinh giác ngộ thế gian là khổ, Đức Phật đã chỉ ra nguyên nhân của những sự khổ (Tập đế), chỉ cho biết sự an lạc, hạnh phúc chân thật, vững bền khi chấm dứt sự khổ bằng cách diệt trừ gốc khổ (Diệt đế), và Ngài dạy con đường chấm dứt sự khổ để đạt được nguồn chân hạnh phúc (Đạo đế).

Nhận thức về khổ là bước đầu giác ngộ làm tiền đề cho sự tu tập giải thoát khỏi các phiền não khổ đau. Có giác ngộ bản chất đời sống là khổ, con ngườithế giới vô thường, vô ngã, luôn sinh diệt, biến dị (đổi khác) thì mới ly tham (xa lìa tham ái, chấp thủ); chỉ có ly tham mới thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời, thoát khỏi sự chi phối của phiền não khổ đau. Đó chính là lý do tại sao Đức Phật nói về Khổ đế trước tiên khi nói pháp Tứ diệu đế.

Trong kinh Tương Ưng III, Tôn giả Xá-lợi-phất có dạy: “Đối với ngũ uẩn: sắc, thọ, tuởng, hành, thức (con ngườithế giới hữu tình lẫn vô tình, đời sống vật chất lẫn tinh thần), ai chưa viễn ly (rời xa) tham, dục, nhiệt tình, khát ái, thì khi ngũ uẩn biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu bi, khổ, ưu, não… Đối với ngũ uẩn, ai đã viễn ly tham, dục, nhiệt tình, khát ái, thì khi ngũ uẩn biến hoại, đổi khác sẽ không khởi lên sầu bi, khổ, ưu, não… Do thấy được sự ích lợi này, bậc Đạo sư (Đức Phật) nói đến sự điều phục dục và tham đối với ngũ uẩn”. Điều này chúng ta dễ dàng thấy rõ. Ví dụ như một người quá yêu vẻ đẹp của mình (tham ái về sắc), sống chăm chút, suốt ngày chăm lo, nâng niu cái vẻ đẹp đó, cứ sợ nó sa sút, tàn phai, thì khi già yếu, bệnh tật, hoặc chẳng may bị một tai nạn khiến trở nên tật nguyền, xấu xí, thì người đó khổ đau cùng cực, mất hết niềm vui và hạnh phúc. Hoặc người thích sống hưởng thụ (nhiệt tình, khát ái đối với thọ – các cảm giác) thì khi gặp hoàn cảnh thiếu thốn, nghèo nàn không có điều kiện hưởng thụ sẽ không chịu được, cảm thấy buồn bã, khổ não vô cùng.

Chính vì không nhận biết bản chất ngũ uẩnvô thường, vô ngã, bất toàn, nên tham muốn, nhiệt tình, khát ái đối với ngũ uẩn mà sinh ra nhiều hệ lụy, nhiều phiền não khổ đau: tham muốn nhà cao cửa rộng, tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, địa vị, các phương tiện vật chất, các thú vui hưởng thụ… Những tham muốn, khát vọng đó nếu không thực hiện được, không được thỏa mãn, bị kiềm hãm, ngăn chặn đều dẫn đến khổ não, trừ khi biết xa lìa, buông bỏ từ trong ý niệm cho đến hành vi. Ngay cả những gì chúng ta đạt được, làm cho chúng ta thỏa mãn cũng không tồn tại mãi với chúng ta, vì bản chất vô thường, vô ngã của nó và cuộc đời: tai nạn, bệnh tật, thất bại trong tình yêu, trong sự nghiệp, bị phá sản, bị mất việc, người thân, người yêu, bạn bè phản bội; thiên tai, nhân họa…, tất cả là sự thay đổi theo định luật vô thường khiến cho người ta choáng váng, suy sụp tinh thần nếu như không hiểu thấu lý vô thường, vô ngã, nếu như không buông xả tham ái, chấp thủ.

Nhận thức về khổ là khởi đầu của tiến trình giác ngộ, giải thoát. Thái tử Tất-đạt-đa cũng thức tỉnh từ bước đầu ý thức về sự khổ khi đi du ngoạn qua bốn cửa thành. Chính ý thức về sự khổ làm phát sinh nhu cầu thoát khổ, và nhu cầu thoát khổ là động lực thúc đẩy Ngài lìa bỏ mọi dục lạc, lìa bỏ đời sống xa hoa vương giả để tu hành giác ngộ, giải thoát. Ý thức về khổ từ kinh nghiệm bản thân hay từ người khác (như trường hợp thái tửTất-đạt-đa chứng kiến cảnh khổ của dân chúng trong nước) đều có tác dụng tích cực cho tiến trình giác ngộ giải thoát. Nếu không ý thức về khổ thì con người luôn bám chặt ý niệm truy tìm, theo đuổi, nắm bắt và gìn giữ các đối tượng của sự yêu thích, ham muốn là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, hay nói rộng hơn, sâu xa hơn là sự tham muốn, nhiệt tình, khát ái đối với ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Yêu thích, tham muốn, nhiệt tình, khát áichấp thủ chính là động lực thúc đẩy tạo nghiệp đưa đến khổ và tái sinh đời này đời khác, trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi.

Một khi không nhận thức được sự thật về khổ, đắm chìm trong dục lạc thế gian, thì hiện tại và tương lai đời này và đời sau phải chịu cảnh trầm luân trong biển khổ, trôi nổi lặn hụp trong sinh tử luân hồi. Những ai có phước báu, có nhiều điều kiện hưởng thụ những lạc thú trên đời: nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, danh vọng địa vị, đầy đủ các phương tiện vật chất, các thú vui hưởng thụ… thường dễ rơi vào vòng sa đọa trụy lạc nếu không ý thức được đằng sau những lạc thú đó là bờ bến khổ đau.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1387)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1235)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1302)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1365)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1343)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1470)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1362)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1431)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1425)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1307)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1377)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1396)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2090)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1423)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1447)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1316)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1576)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1430)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1286)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1252)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1312)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1293)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1437)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1157)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1150)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1198)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1335)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1362)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1122)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1244)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1174)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1340)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1320)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1457)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1561)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1299)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1271)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1413)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1456)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1371)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1720)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1354)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1338)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1379)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1218)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1255)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1384)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1500)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1573)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant