Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người canh giữ tiếng chuông Phật học viện Hải Đức - Nha Trang

15 Tháng Giêng 201522:05(Xem: 11674)
Người canh giữ tiếng chuông Phật học viện Hải Đức - Nha Trang

Người canh giữ tiếng chuông Phật học viện Hải Đức - Nha Trang

gacchuong-hai-duc-nha-trangTiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệBồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
 
Tiếng chuông trong hiện thực hay trong văn học đời nào cũng hiện hữu thì PGVN vẫn tồn tại. Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh. Điều ấy chứng tỏ các vị Tăng, những người con kiên định của PHV biết phát huy lý tưởng khổ hạnh giải thoát của mình, công phu gióng lên tiếng chuông nhiệm mầu không những cho thế gian này mà đến cả Thiết Vi. Riêng người viết bài này, từ niệm thù ân cội nguồn mà điểm lại một chặng đường lịch sử bể dâu. 
 
Có một thời, không phải riêng tôi mà tất cả đồng môn hành điệu nơi này đã sớm chiều công phu gióng lên tiếng chuông trên đồi cao lộng gió. Nhưng rồi cái thời thánh thiện ấy cũng nhanh chóng qua mau, như “nồi kê chưa kịp chín”. Vào thời điểm mở cửa, nên cũng kịp góp vốn xoay xở làm ăn, để cho sự tồn tại không phải đạp xích lô hay làm kẻ gánh thuê ở chợ Đà Lạt như các tri thức lỡ vận của xứ này... Một thời học kinh bằng chữ Hán rồi được nâng lên từ đại học Vạn Hạnh nên cái vốn Hán Nôm cũng đủ lận lưng để giúp tôi rà soát, chỉnh sửa lại những bản dịch Luật của thầy. Cái “bất tu” ấy lại hiện thực tính biện chứng của nó từ đây.
Khoảng những năm cuối của thập niên 70, tôi được ông bà cụ, nhà ở gần nhà thờ Tin lành, Xóm Bóng, là ông bà ngoại của người bạn dạy cùng trường Vĩnh Hải - Đồng Đế cho ở nhờ trong gian phòng nhỏ riêng biệt và cho tôi đóng góp vào hai bữa ăn do cụ bà nấu nướng… Hai cụ có người con rể là mục sư Tin lành, tất nhiên hai cụ là tín hữu ngoan đạo, thường thuyết giảng giáo lý Tin lành cho tôi nghe, có lần rủ tôi đi dự lễ Chúa giáng sinh…Tôi lắng nghe và làm theo như một tín hữu từ bi… Hai bữa cơm trưa, tối, trước khi ăn, tôi nghiêm chỉnh lắng lòng nghe hai cụ cầu nguyện và bày tỏ lòng biết ơn Chúa: “Chúa tạo ra sự sống, Chúa đã cho con thức ăn này, thức ăn này từ Chúa mà có… Chúng con biết ơn chúa…” Tôi cung kính lắng nghe và tâm niệm theo kiểu của tôi, hai cụ rất hài lòng… 
 
Ngày nọ cụ bà hỏi tôi: Bên Phật có cầu nguyện như thế này không? 
 
- Thưa cụ, còn hơn thế nữa cụ ạ! Tôi đáp lời. 
- Thầy có thể nói cho tôi nghe nội dung được không? 
 
Tôi từ tốn thưa rằng: Có 3 điều nguyện và 5 việc phải xét mình.
 
Ba nguyện là: Nguyện dứt bỏ điều ác, nguyện làm các điều thiện, nguyện cứu giúp mọi người
 
Năm xét là: a) Xét vật thực, công của ít nhiều này từ đâu đến, b) Xét đo mình có đủ đức hạnh hay khiếm khuyết rồi mới ăn, c) Khi ăn phải ngăn chận tâm tham lam tội lỗi, d) Xem vật thực này là loại thuốc tốt để chữa bệnh khô gầy, đ) Phải thành đạo nghiệp mới nhận thức ăn này. 
 
Thưa hai cụ, các điều nguyện và xét cháu vừa trình bày, quả thật, trừ tu sĩ, phần lớn Phật tử chỉ niệm Phật, ít ai chú nguyện trước khi ăn như bên hai cụ. Gương hai cụ là bài học cho cháu đấy.
 
Thời gian đan xen nhiều thứ ác và thiện, rủi romay mắn, khổ đau hay sung sướng... nói khác đi thời gian của “nhị nguyên”. Sau đó không lâu tôi dời chỗ ở và mãi đến một, hai năm sau, ngày ấy, khi hay tin bà cụ kéo nước tưới cây, hệ thống ròng rọc bị gãy đổ, bà cụ ngã nhào rơi xuống giếng sâu, phải mất mấy tiếng sau, trong đêm, người nhà mới phát hiện ra khổ nạn đau lòng này. Tôi đến thăm, cả nhà đang cầu nguyện giữa hoa và đèn sáp lung linh. Tôi xin được cùng tham dự.
 
Trong thời gian tạm ngụ tại nhà hai cụ, khuya nào tôi cũng nghe được tiếng chuông chùa. Sau một thời gian kiểm nghiệm âm thanh vang vọng từ bên này và bên kia sông Cái, rồi nhớ lại độ ngân thuở mình là nhân chứng, tôi vui mà cả quyết rằng âm thanh ấy là từ tiếng chuông Phật Học Viện Hải Đức - Nha Trang. Còn đó dòng sông Cái, một lăng kính khúc xạ âm thanh bàng bạc làm chứng cho điều xác quyết của tôi. 
 
Thời ấy, Phật Học Viện như “tan đàn xẻ nghé” nhưng lớp sau vẫn canh giữ tiếng chuông đều đặn bất chấp thịnh hay suy. Đến nỗi tại đây chỉ còn lại một hai thầy vẫn kiên trì sớm khuya canh giữ tiếng chuông. Trong Phật pháp luôn nói đến điều nhiệm mầu và chính điều này tác động lên cái tâm thanh tịnh của các vị Tăng: Phước Niệm, Phước An, Tâm Pháp… đã vô ngôn trong hạnh nguyện của mình. Nhưng riêng Tâm Pháp út ít nguyện làm người canh giữ tiếng chuông Phật Học Viện đến trọn đời. Thời gian còn lại so với mấy mươi năm công phu gióng chuông chẳng là bao, nhất định thầy Phượng tròn hạnh nguyện và như thế Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang vẫn tồn tại theo tiếng chuông canh giữ của thầy và chắc chắn tiếng chuông sẽ mãi mãi tương tục với thời gian. Công đức ấy là vô lượng, cho nên, việc thiếu thốn cơm, áo, gạo, tiền là chuyện có gì phải đáng quan tâm, nhất định sẽ có Hộ pháp ủng hộ, và sự khỏe mạnh cùng tiếng chuông tinh tấn của thầy Phượng, suốt thời gian qua là một minh chứng. Hạnh đầu đà thời nào cũng vẫn thế, và như thầy đã biết Thế Tôn ca ngợi, tán dương hạnh đầu đà của tôn giả Ca Diếp như thế nào rồi. Hãy soi gương Tôn giả Ca Diếptự tại trên non Trại Thủy gió lộng bốn mùa này. Còn có cõi về nào hơn thế nữa!? Hãy sống tròn hạnh nguyện với nó, hỡi một Phước An, Tâm Pháp còn lại! Ừ! Tâm Pháp là ai nhỉ?! Là đệ tử của ngài Trừng San, quê Diên Khánh, tục danh là Nguyễn Dư, thường gọi là thầy Phượng. Thầy vào Phật Học Viện năm 1969 và nguyện canh giữ tiếng chuông Phật Học Viện đến trọn đời. Chỉ cần nghe tiếng chuông của thầy gióng lên từ cội nguồn là đủ cho tôi tự tại đi giữa lòng trần thế mà điều xấu ác nhiều hơn điều thiện như vây bọc kiếp người.
 
Rồi một ngày tôi quay về chùa Phước Điền để gặp gỡ huynh đệ cựu tăng. Tôi nghe pháp hữu Giác Tuệ nói như vầy: hằng khuya tôi ở Xóm Dừa bên kia một “nhánh sông đen” cạnh “phố” Phường Củi, nghe tiếng chuông Phật Học Viện ngân vọng rất ấm lòng. Được biết thầy Tâm Pháp thiếu gạo ăn, chúng ta xin cúng dường phần này được không? Hình như biên bản cuộc họp có ghi rõ sự nhất trí cao ý nguyện cúng dường này. Riêng tôi, từ khi nghe tiếng chuông đến lúc gặp mặt đầu đà Tâm Pháp trên 30 năm…Tôi rất hỗ thẹn nhưng vô cùng hạnh phúc được đóng góp công đức nhỏ nhoi muộn mằn này. Thầy Phượng đã ôm choàng tất cả huynh đệ trong buổi hội ngộ… Chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại trong kiếp luân hồi nào đó, dù dưới hình hài nào đi nữa. Trong đó có thể xác quyết tiếng chuông Phật Học Viện hôm nay là nhân lành của chúng tôi nói riêng và cảnh giới khác nói chung
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 768)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 740)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 751)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 747)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 651)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 836)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1227)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1398)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1126)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1457)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 924)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 825)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 932)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 944)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 915)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 942)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1074)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 893)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1038)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1043)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 965)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 989)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 912)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1072)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1016)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 941)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1051)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 974)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 905)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1008)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 948)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1197)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 974)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1060)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1225)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1659)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1228)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1304)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1164)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1024)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 988)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1019)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 868)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1537)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1417)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1394)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1334)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1435)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1385)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1530)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant