Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trong Một Nắm Tay

09 Tháng Ba 201907:51(Xem: 6800)
Trong Một Nắm Tay
Trong Một Nắm Tay 

Nguyễn Duy Nhiên


Truyện Ngắn Người Cửa Phật


Trong con đường học Phật, đôi khi chúng ta có thể cảm thấy như mình bị lạc lỏng trong một khu rừng mênh mông, bị tràn ngập với vô số những giáo lý và lời dạy khác nhau. Ta không biết mình cần nên học và hành những gì, và làm sao ta có thể học hỏi được hết những gì Phật dạy! Nhưng thật ra vấn đề học Phật không vất vả và xa vời như ta nghĩ.

Đức Phật có lần nhắc nhở các thầy rằng, những điều chúng ta cần hiểu và hành, thật ra chúng rất đơn giản và không nhiều, chỉ chừng như những lá cây trong một nắm tay nhỏ thôi. Chúng không mênh môngtrừu tượng như ta nghĩ.

Ngài Tỳ khưu Buddhadasa, một học giả Phật học nổi tiếng của thế kỷ 20, nhắc nhở chúng ta rằng, thật ra thì “Nguyên lý gốc rễ của sự thực hành để chấm dứt khổ đau gom lại chỉ chừng đầy một nắm tay thôi. Và chúng ta cũng nên mừng rằng một nắm tay là không có bao nhiêu. Nó không hề vượt qua ngoài khả năng học hỏi và hành trì của ta.”

Xin được chia sẻ với bạn, những nhận xét sâu sắc của Ngài Buddhadasa muốn nhắc nhở chúng ta rằng, tất cả những gì Phật dạy thật ra chỉ là một con đường buông xả mà thôi.

 

Đặt đúng vấn đề

“Thế nào thì được gọi là một “nguyên lý cốt tuỷ của đạo Phật”? Tôi nghĩ, trước nhất nguyên lý ấy phải chuyển hóa được khổ đau (dukkha), và thứ hai, nó phải có một luận lý mà ai cũng có thể tự mình chứng nghiệm được và không cần phải tin vào kẻ khác.

Đức Phật lúc nào cũng từ chối không chịu luận bàn đến những điều mà Ngài thấy không đưa ta đến sự chấm dứt khổ đau. Cái gì đi tái sanh? Tái sanh bằng cách nào? Những câu hỏi này hoàn toàn không hề giúp ta chuyển hóa được khổ đau của mình. Và vì thế, chúng không phải và cũng không có một liên hệ gì đến lời Phật dạy. Chúng cũng không nằm trong phạm trù của đạo Phật. Và người nêu lên câu hỏi ấy cũng không có một sự chọn lựa nào khác hơn là mù quáng tin vào câu trả lời, vì thật ra người trả lời cũng không thể nào đưa ra một chứng cớ nào rõ rệt hết, họ chỉ nói theo sự suy đoáncảm xúc của mình mà thôi. Và vì người nghe không thể tự mình chứng nghiệm được, nên họ đành phải nhắm mắt tin vào lời nói của kẻ khác mà thôi. Và dần dà, vấn đề mỗi lúc một đi xa đạo Pháp, cho đến khi nó hoàn toàn trở thành một vấn đề khác biệt, không còn dính dáng gì đến với chuyện chuyển hóa khổ đau nữa hết.

Và thay vì nêu lên những vấn đề như vậy, ta cũng có thể đặt lại câu hỏi là “Có khổ đau không?” và “Làm cách nào để chuyển hóa được khổ đau?” Chắc chắn đức Phật sẽ sẵn sàng trả lời những câu hỏi ấy cho ta. Người nghe sẽ có thể thấy rõ được chân lý trong mỗi chữ của câu trả lời mà không cần phải tin theo mù quáng. Và cùng với sự thực tập, ta sẽ mỗi lúc lại càng thấy được sự thật ấy rõ rệt hơn, cho đến lúc tự chính mình thấu hiểu hoàn toàn.

 

Chỉ cần một nắm lá nhỏ

Thật ra, nguyên lý cốt tuỷ của đạo Phật cũng không có nhiều. Đức Phật nói rằng giáo pháp của ngài chỉ có chừng đầy “một nắm tay” mà thôi. Một đoạn trong Tương Ưng Bộ kinh, Samyutta-nikaya, đã làm sáng tỏ điều này. Có một lần đang đi trong rừng, đức Phật cúi xuống và nắm một vóc lá trong tay. Ngài hỏi các đệ tử cùng đi với Ngài rằng, lá trong tay của Ngài nhiều hay lá trong rừng nhiều hơn. Lẽ dĩ nhiên các thầy trả lời rằng lá trong rừng nhiều gấp vô số lần số lá trong tay của Phật. Sự khác biệt không thể nào so sánh được. Ta hãy thử tưởng tượng hình ảnh ấy đi. Và đức Phật nói tiếp, cũng vậy, những gì Ngài biết và chứng đắc được nhiều cũng như lá trong rừng. Và những gì chúng ta cần biết, những gì chúng ta cần học hỏithực hành, thì cũng chỉ cần như số lá nằm trong bàn tay của Ngài mà thôi.

Từ bài kinh đó ta có thể thấy được rằng, so với tất cả vô số sự việc trên vũ trụ này, nguyên lý gốc rễ của sự thực hành để chấm dứt khổ đau gom lại chỉ chừng đầy một nắm tay thôi. Và chúng ta cũng nên mừng rằng một nắm tay là không có bao nhiêu. Nó không hề vượt qua ngoài khả năng học hỏi và hành trì của ta. Đây là điểm quan trọng đầu tiên mà chúng ta cần hiểu thấu, nếu ta muốn đặt một nền móng vững chắc và hiểu đúng giáo Pháp của đức Phật.

 

Không vướng mắctoàn thể lời Phật dạy

Lời dạy của đức Phật nói đến sự thực tập về tánh-không, sunnata, là lời dạy tâm yếu của đạo Phật. Ta cần phải chú ý sâu sắc đến lời dạy này. Không có bất cứ một điều gì mà ta có thể nắm bắt và cho đó là “tôi” hay là “của tôi.” “Sabbe dhamma nalam abhinivesaya”

Đức Phật cũng từng nói rằng đó chính là toàn thể lời dạy của tất cả các chư Phật từ ngàn xưa đến nay. Ngài nói rằng, chỉ cần nghe một câu ấy thôi “Sabbe dhamma nalam abhinivesaya” là ta đã nghe trọn vẹn hết tất cả Phật pháp, thực hành bấy nhiêu thôi là thực hành hết tất cả, và thành đạt được bấy nhiêu thôi là thành đạt hết tất cả.

Vì vậy ta đừng bao giờ sợ rằng biển Pháp mênh mông quá và ta không thể nào hiểu được hết. Khi đức Phật so sánh những gì Ngài biết nhiều như lá trong rừng, với lại những gì Ngài dạy cho các đệ tử mình thực hành, nhiều như lá trong một nắm tay, số lá trong nắm tay ấy chính là lời dạy này: không nắm bắt hay dính mắc vào bất cứ một điều gì và cho đó là tôi hay là của tôi.

“Chỉ nghe bấy nhiêu thôi là ta đã nghe hết tất cả,” vì tất cả những giáo Pháp khác đều có mặt trong đó. Tất cả những gì đức Phật dạy không có một điều gì lại không liên quan đến khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau. Nắm bắt và dính mắc là nguyên nhân của khổ đau, dukkha. Khi nào có sự nắm bắt và dính mắc là khi ấy có khổ đau. Và khi nào không còn sự nắm bắt và dính mắc nữa thì khi ấy sẽ không có khổ đau. Sự thực tập ở đây là làm sao để ta chuyển hóa sự nắm bắt và dính mắc của mình trở thành một tánh-không, để nó sẽ không bao giờ còn khởi lên nữa. Bấy nhiêu đó thôi là đầy đủ rồi. Không còn gì khác hơn để làm nữa.

 

Bấy nhiêu thôi là đã thực hành tất cả

“Chỉ thực hành bấy nhiêu thôi là ta đã thực hành hết tất cả.” Bạn nghĩ là ta có còn cần phải thực hành thêm những gì nữa chăng? Nếu trong giây phút này, một người nào đó có một tâm tự tại, trong sáng không còn nắm bắt hay bị dính mắc vào bất cứ một điều gì hết, người ấy có được những gì? Mời bạn hãy suy nghĩ cho thật kỹ. Nếu bạn nhìn cho sâu sắc bạn sẽ thấy rằng, thật ra người ấy đã thành đạt được hết tất cả những pháp môn trong truyền thống như là Tam quy (tisarana), bố thí (dana), trì giới (sila), thiền định (samadhi), trí tuệ (panna), và ngay cả quả trái của chúng là Niết bàn (nibbana).

Vì khi ta buông bỏ hết và không còn nắm bắt nữa, thì chắc chắn là ta đã trở vềquy y nơi tam bảo (tisarana). Ta quay trở về nương tựa vào Phật, Pháp và Tăng, tâm ta không còn mang nặng những phiền muộn nữa và trở thành một với tam bảo. Trở về nương tựa không phải bằng những lời nói suông chúng ta vẫn thường tụng đọc mỗi ngày, mà là trở về với Phật, Pháp, Tăng đang có mặt trong tâm ta. Những khi tâm ta không còn bị dính mắc, không còn thấy là “tôi” và “của tôi” nữa, cho dầu chỉ trong chừng một phút chốc thôi, là tâm ta cũng đã hiểu được tánh-không. Và đó cũng chính là trái tim của tam bảo.

Sự thực tập kế tiếpbố thí (dana). Bố thí có nghĩa là buông xả, không còn nắm bắt vào một vật gì và cho đó là “tôi” hay “của tôi”. Khi tâm ta không còn có một cái chấp ngã, là ta đang thực hành một hạnh bố thí cao tột nhất, vì khi ta buông bỏ luôn cả cái ta của mình rồi, thì đâu còn lại gì để ban cho nữa? Và khi đó là ta đã thực hành hạnh bố thí một cách toàn vẹn nhất.

Và kế đến là trì giới (sila). Một người khi đã không còn nắm bắt và dính mắc vào gì nữa hết thì mọi hành động và lời nói của họ bao giờ cũng hoàn toàn thật sự chân chánh. Còn những sự trì giới khác thật ra chỉ là một vấn đề tạm thời, lúc có lúc không mà thôi. Chúng ta có thể lập những lời nguyện và hứa rằng sẽ không làm việc này hay nói lời nọ, nhưng rồi ta cũng không thể giữ được. Khi tâm ta được rỗng không, cho dù chỉ trong phút chốc, hay một ngày hoặc một đêm, là trong lúc ấy ta đang trì giới trọn vẹn.

Còn về thiền định (samadhi), một tánh-không là một tâm định sâu sắc và vững vàng nhất. Một tâm định mà còn dụng sức và nỗ lực vẫn chưa phải là chánh định. Chỉ có một tâm thức không còn nắm bắt và dính mắc vào cái “tôi” và “của tôi” nữa, mới thật sự có được một sự quân bìnhkiên cố của chánh định. Một người đạt được tánh-không là một người lúc nào cũng sống trong chánh định.
Phương pháp thực hành kế đến là trí tuệ, tức bát nhã (panna). Nơi đây chúng ta có thể thấy rõ rằng, hiểu được tánh-không, sunnata, chính là tinh yếu của tuệ giác. Khi tâm ta rỗng lặng, nó sẽ trở nên rất tinh tế, trong sángminh mẫn. Khi tâm ta không còn những ý niệm về “tôi” và “của tôi”, thì đó cũng là bát nhã. Vì vậy nên người ta thường nói sunnata và panna là một, tánh-không và bát nhã là một. Khi tâm ta không còn những cái biết sai lầm nữa, nó sẽ thấy lại được cái bản tâm trong sáng ban đầu của chính nó.

cuối cùng ta có thể gặt hái được quả trái của chúng là Niết bàn, nibbana. Nơi đây sự tiến hóa dần dà của tánh-không đã đi đến mức cao tột nhất, và nó còn được gọi là tánh-không-bát-nhã (parama-sunnata).

 

Tất cả chỉ là một hành trình buông xả.

Bây giờ chắc các bạn cũng thấy được rất rõ rằng, hành trình từ quy y tam bảo cho đến bố thí, trì giới, thiền định, và tuệ giác, không có gì khác hơn là tánh-không, cũng có nghĩa là không dính mắc vào một cái tôi. Và quả vị của niết bàn cũng không gì khác hơn điều ấy. Mà thật ra niết bàn chính là một trình độ cao tột nhất của sunnata, tánh-không.

vì vậyđức Phật đã dạy rằng, chỉ cần nghe bấy nhiêu thôi là ta đã nghe hết tất cả giáo Pháp của Ngài. Thực hành bấy nhiêu thôi là ta đã thực hành hết tất cả. Thành đạt bấy nhiêu thôi là ta đã thành đạt hết tất cả: không nắm bắt hay dính mắc vào bất cứ một điều gì và cho đó là tôi hay là của tôi. Nothing whatsoever should be clung to as “I” or “mine.” Sabbe dhamma nalam abhinivesaya. Và chúng ta hãy cố gắng tinh tấn hành trì, để rồi một ngày nào đó ta có thể thật sự hiểu được tinh yếu của sunnata, chữ tánh-không ấy thật sự có nghĩa là gì.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 808)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1206)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 760)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 869)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 816)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 775)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 783)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 782)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 701)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 945)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1264)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1426)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1172)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1489)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 955)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 854)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 962)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 985)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 956)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 975)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1107)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 928)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1068)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1063)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 996)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1024)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 943)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1101)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1044)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 960)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1065)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 998)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 930)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1029)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 965)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1215)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 995)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1092)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1241)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1687)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1257)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1331)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1189)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1053)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1015)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1039)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 893)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1564)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1452)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1418)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant