Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hơi Thở Ý Thức

03 Tháng Bảy 201904:53(Xem: 6315)
Hơi Thở Ý Thức

HƠI THỞ Ý THỨC

Sharon Salzberg
Nguyễn Duy Nhiên

 
Thien dinh

Tương truyền rằng khi còn là một cậu bé, đức Phật tự nhiên đã biết thực tập quán niệm hơi thở, và vào đêm thành đạo ngài đã thực hành theo phương pháp này trong lúc tĩnh tọa dưới cội bồ-đề. Anapana, tiếng Pali có nghĩa là có ý thức về hơi thở vào và hơi thở ra, là một trong những đề mục thiền quán cơ bản nhất mà đức Phật đã dạy.

 

 Vào năm 1970, tôi đi sang Ấn Độ với mục đích duy nhất là để học thiền. Đến tháng giêng năm 1971, tôi tham dự một khóa thiền nhiều ngày lần đầu tiên. Tôi không có một chút kinh nghiệm gì về hành thiền hết, nhưng tôi có rất nhiều ý niệm về những phương pháp thực hành huyền bí, phức tạp mà tôi nghĩ rằng mình sẽ được chỉ dạy. Lời hướng dẫn đầu tiên cho tôi là có ý thức về hơi thở của mình. Sự đơn giản làm tôi giật mình.

 Anapana, hay quán niệm hơi thở, sở dĩ là một phương pháp nền tảng trong thiền quán cũng có một số lý do. Hơi thở là một hiện tượng tự nhiên và không cố gắng. Khi tôi mới bắt đầu thực tập, tôi thường hay lo lắng về hơi thở kế tiếp của mình, như là tôi phải tạo nên nó vậy. Nhưng khi tôi tự nhủ: “Trước sau gì mình cũng phải thở thôi, vậy chỉ cần chú ý đến nó là đủ rồi!” Tôi cảm thấy thoải mái trở lại. Có chánh niệm, ý thức về hơi thở tự nhiên của mình, sẽ mang lại một trạng thái thanh nhẹ cho thân và tâm ta.

 Hơi thở lúc nào cũng có mặt với ta ngay bây giờ và ở đây. Trong khi chú ý đến hơi thở, ta có thể thấy tâm mình trôi dạt về quá khứ, so sánh hơi thở này với một hơi thở trước. Hay tâm ta có thể đi vào tương lai, mong chờ lúc ta đứng dậy, ăn sáng và đi làm, trong khi một hơi thở trong giây phút hiện tại vẫn chưa xong!

 Một trong những khám phá lớn mà tôi có trong thời gian đầu hành thiền là thấy mình thường có một khuynh hướng “nghiêng về trước” để tìm hơi thở kế tiếp. Tôi hiểu là mình chỉ cần giản dị an trú trong giây phút hiện tại này thôi. Tôi cảm thấy một sự quân bình kỳ diệuhoàn toàn thoải mái, cũng như một người lạc lối vừa tìm về lại được ngôi nhà xưa thân yêu của mình. Dưới ánh sáng của chánh niệm, ta có thể ý thức được cả hai khuynh hướng: ngã về quá khứ hoặc nghiêng tới tương lai, và từ đó ta có thể giữ cho mình được thư thảlấy lại quân bình. Cũng nhờ đó mà ta có thể cảm nhận được được sự khác biệt giữa những khi mình bị thất niệm, và lúc ta kinh nghiệm được sự có mặt trọn vẹn trong giờ phút hiện tại.

 Hơi thởý thức cũng có tác dụng giống như một tấm gương sáng, không phải để giúp đỡ hoặc chống lại một cái gì, mà là phản ảnh giây phút hiện tại một cách trung thực, không để bị cản trở bởi ý niệm và sự ưa thích của ta. Nếu ta biết duy trì sự chú ý vào hơi thở, ta có thể để những gì khởi lên trong tâm đến và đi tự do. Có thể ta có khuynh hướng phê phán: “Hơi thở tôi không tốt lắm, không dài lắm, không sâu lắm, không nhẹ lắm.” Tôi thì thường hay như vậy lắm. Tôi thấy một hành động đơn giản như thở thôi, mà cũng đã đầy dẫy những ý tưởng khen chê về sự thiếu sót của mình rồi. Trở về với hơi thở, mỗi khi ta tiếp tục buông bỏ những sự khen chê này là ta đã phóng rải tâm từ đến chính mình rồi đó.

 Trong phương pháp quán niệm hơi thở, anapana, mỗi hơi thở, trọn từ phần đầu ngang qua giữa đến phần cuối, trở thành cái vũ trụ của ta. Cảm xúc được hơi thở khi nó ra vào nơi lỗ mũi - thay vì quan sát như một người đứng từ xa - ta trở thành một với hơi thở, tiếp xúc được với cảm giác thay đổi của nó. Khi tôi tiếp xúc với hơi thở, khuynh hướng rời xa hiện tại của tôi cũng giảm bớt, và tôi tìm thấy một sự gần gũi mật thiết hơn với sự sống của chính mình.

 Chánh niệm về hơi thở giúp ta thấy rõ tính chất mong manh vô cùng của sự sống, vì chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc vào mỗi hơi dưỡng khí. Và khi ta kinh nghiệm được sự thay đổi liên tục của cảm xúc, sinh lên và diệt đi, ta sẽ nhận thấy tính chất kiên cố của cơ thể ta cũng tan biến mất, điều đó giúp phát sinh một tuệ giác về vô thường. Sự sống sanh diệt theo từng hơi thở. Có lần thầy tôi nói: “Cô có biết không, sự sống hoàn toàn tùy thuộc vào hơi thở vào của cô, sau mỗi lần cô thở ra.”

 Điểm tinh túy của phương pháp quán niệm hơi thở - cũng như mọi phương pháp hành thiền khác - là khả năng bắt đầu trở lại. Chúng ta có thể bị lạc về quá khứ, lạc vào tương lai, lạc trong những sự phán xét, nhưng một khi ta ý thức được mình đang bị xao lãng, ngay giây phút ấy ta có thể bắt đầu lại và trở về tiếp xúc với hơi thở. Mặc dù ta rất dễ bị quyến rũ theo những sự lo ra, hoặc phí thì giờ tự chê trách mình, khi biết buông bỏ và bắt đầu lại ta sẽ lập tức thiết lập lại chánh niệm và sự tỉnh thức ngay.

 Lúc mới bắt đầu ngồi thiền, tôi rất thường đánh mất sự chú ý vào hơi thở. Và mỗi khi nhớ đến, tôi lại bỏ hết thì giờ ngồi thiền để tự trách móc, trừng phạt mình vì đã thiếu chánh niệm: “Tại sao tôi để như vậy? Hôm qua đâu có tệ đến thế này! Không có ai lại thiếu tinh tấn như mình, chỉ có mình thôi!”

 Điều đáng buồn cười là sự thất niệm của tôi có thể kéo dài chừng nhiều lắm là năm phút, nhưng tôi lại có thể bỏ ra hơn hai mươi phút để tự trách móc mình về việc ấy! Đó là chưa kể còn tạo thêm những khổ đau khác không cần thiết nữa. Nếu ta có thể thấy rằng, cho dù bất cứ một tư tưởng quyến rũ, khờ dại, điên rồ hoặc khó khăn nào có khởi lên, ta vẫn có thể buông bỏ chúng và bắt đầu trở lại, đức tự tin sẽ tăng trưởng trong ta.

 Mỗi khi bắt đầu lại là ta đang trở về có mặt trong hiện tại. Danh từ Pali Bhavana thường được dịch ra là “thiền tập”. Nhưng dịch sát thì nó có nghĩa là “khiến một cái gì đó trở thành”, “làm cho hiện hữu”, hay là “mang ra”. Nó chuyên chở một ý niệm về sự phát sinh. Như trong khi ta thực tập quán niệm hơi thở, chúng ta làm khởi sinh lên sự thư thả, có mặt, gần gũi, tình thương, tuệ giácđức tin. Chỉ cần trở về có mặt với hơi thở của mình, điều đó sẽ sinh ra sự toàn vẹn của chính ta.

Trích từ sách:
TRÁI TIM THIỀN TẬP
Tác Giả: Sharon Salzberg
Nguyễn Duy Nhiên Dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 808)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1206)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 760)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 869)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 816)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 775)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 783)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 782)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 701)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 945)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1264)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1426)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1172)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1489)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 955)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 854)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 962)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 985)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 956)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 975)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1107)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 928)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1068)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1063)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 996)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1024)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 943)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1101)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1044)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 960)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1065)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 998)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 930)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1029)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 965)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1215)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 995)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1092)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1241)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1687)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1257)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1331)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1189)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1053)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1015)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1039)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 893)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1564)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1452)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1418)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant