Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhĩ Căn Viên Thông

24 Tháng Mười Một 202319:31(Xem: 1322)
Nhĩ Căn Viên Thông
Nhĩ Căn Viên Thông  

Thích Nguyên Hùng

Bồ Tát Đạo


Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).

Khả năng này không những giúp cho Bồ-tát có thể nghe và hiểu hết tất cả âm thanh của thế gian mà còn cho phép Bồ-tát nghe mà thấy sắc, nghe mà biết mùi, nghe mà biết vị, nghe mà cảm nhận, nghe mà thấu hiểu, tức là lỗ tai có tất cả những chức năng của các giác quan mắt, mũi, lưỡi, thân và ý.

Kinh Thủ lăng nghiêm ghi lại lời trình bày về sự tu tập của Bồ-tát Quán Thế Âm lên Đức Thế Tôn như sau: “Kính bạch Thế Tôn! Con nhớ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Ở nơi Đức Phật ấy, con đã phát tâm Bồ-đề. Đức Phậtấy dạy cho con cách vào thiền định bằng phương phápVăn, Tư, Tu.

Con bắt đầu tu tập, trước hết nghe lại chính mình, nghe bên trong, liền được vào dòng; vào dòng rồi không còn tướng nghe. Chỗ vào đã vắng lặng thì hai tướng động và tĩnh rõ ràng không sinh. Cứ như vậy, sự tu tập tăng tiến dần, đến lúc cái nghe và cái được nghe đều vắng lặng. Sự vắng lặng không dừng ở đó, mà tiếp tục tiến đến chỗ cái biết và cái được biết đều không, rồi cái biết về không ấy đi đến chỗ tận cùng viên mãn, cái không và cái được biết là không hoàn toàn vắng bặt.

Ý niệm sinh diệt đã diệt mất hoàn toàn thì cảnh giới tịch diệt hiện ra rõ ràng trước mắt, bỗng nhiên con vượt thoát cả thế gian và xuất thế gianmười phương rực sáng. Ngay đó con đạt được hai điều thù thắng. Một là, trên thì khế hợp với bản giác diệu tâm của mười phương chư Phật. Hai là, dưới thì ứng hợp với hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo mười phương, cùng với chúng sinh đồng tâm khát ngưỡng yêu thương.

Bạch Đức Thế Tôn! Do con cúng dường Đức Quán Thế Âm Như Lai, được Ngài trao truyền cho pháp tu ‘văn huân và văn tu như huyễn’; con tu pháp ấy mà chứng Kim cang tam-muội, cùng với chư Phật đồng một sức từ, khiến cho thân con thành tựu được 32 thân ứng hóa vào khắp các quốc độ” (ĐTK/ĐCTT, tập 19, trang 128b15).

Văn huân là hàng ngày nghe pháptụng kinh, nhất là những lời pháp, lời kinh giữa những trang đời. Những trang kinh đời luôn luôn nói lên sự thật vô thường, khổ, không, vô ngã. Phải lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói tự thân của sự vật hiện tượng, tức là âm thanh của vũ trụ vạn hữu, của các pháp, đó là văn huân. Văn huân như vậy rồi nghiền ngẫmtư duy và tu tập với tính nghe ấy gọi là văn tu. Văn, Tư, Tu miên mật sẽ giác ngộ được bản chất hư huyễn của cuộc đời. Tức là thấy rõ bản chất của các pháp không có gì là thật cả. Bấy giờ Bồ-tát chứng được Kim cang tam-muội.

Văn huân là hàng ngày nghe pháptụng kinh, nhất là những lời pháp, lời kinh giữa những trang đời. Những trang kinh đời luôn luôn nói lên sự thật vô thường, khổ, không, vô ngã. Phải lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói tự thân của sự vật hiện tượng, tức là âm thanh của vũ trụ vạn hữu, của các pháp, đó là văn huân. Văn huân như vậy rồi nghiền ngẫmtư duy và tu tập với tính nghe ấy gọi là văn tu. Văn, Tư, Tu miên mật sẽ giác ngộ được bản chất hư huyễn của cuộc đời.

Diệu lực của Kim cang tam-muội là cùng với chúng sinh trong sáu đường khắp mười phươngba đời đều đồng một lòng khát ngưỡng yêu thương, một thứ tình thương có khả năng chuyển hóa khổ đau và sợ hãi bằng hành động vô tác, gọi là vô duyên từ. Với diệu lực này, Bồ-tát Quán Âm ban chochúng sinh 14 điều vô úy.

1. Quán Âm nhưng không phải quán âm thanh đối tượng bên ngoài, mà quán cái tâm năng quán của chính mình, tức là nghe tiếng nói tự lòng mình. Công phu tu tập này sẽ khiến cho chúng sinhkhổ não khắp mười phương đều được giải thoát (thập phương khổ não chúng sinh, quán kỳ âm thanh tức đắc giải thoát).

2. Quán Âm tức là xoay tri kiến trở lại soi chiếu nội tâm, là lắng nghe tiếng lòng thanh tịnh nhiệm mầu của mình. Công phu soi chiếu này sẽ khiến cho chúng sinh dù vào đống lửa lớn, những ngọn lửa tham đắm, hận thù, si mê… không thể nào đốt cháy được (thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu).

3. Quán Âm tức là quán cái nghe xoay vào nội tâm, để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình. Công phu này sẽ khiến cho chúng sinh dù bị nước lớn cuốn trôi, đó là những dòng nước tham ái, nước lợi danh… cũng không bị những dòng nước ấy nhận chìm (đại thủy sở phiêu, thủy bất năng nịch).

4. Quán Âm tức là diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại. Công phu này khiến cho chúng sinhdù phải vào trong các nước ngạ quỷ, cũng không bị chúng quỷ làm hại. Không còn tâm sát hại thì không bao giờ bị sát hại (nhập chư quỷ quốc, quỷ bất năng hại).

5. Quán Âm tức là huân tập cái nghe mà thành tựu tính nghe chân thật; cả sáu căn đều tiêu huyễn vọng mà trở về chân tínhCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh lúc sắp phải bị hại, dao gãy từng khúc, binh khí chạm thân dường như chém nước, như gió thổi ánh sáng, tính không dao động(sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại).

6. Quán Âm tức là huân tập tính nghe tinh thuần, sáng khắp pháp giới, thì những gì đen tối không thể tồn tạiCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh, dù các loài ác quỷ như dược-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, tì-xá-già, phú-đơn-na..., nếu có đứng gần cũng không thể nhìn thấy, không thể nhìn bằng con mắt dữ dằn (thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn nhị chi).

7. Quán Âm tức là hai tính động, tĩnh của âm thanh đều tiêu diệt hoàn toànquán chiếu tính năng nghe xoay ngược vào trong, xa lìa hết các trần cảnh hư vọngCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh, tất cả những thứ gông cùm xiềng xích đều không dính đến thân thể (nữu giới già tỏa kiểm hệ kỳ thân, giai tất đoạn hoại).

8. Quán Âm tức là dứt tuyệt âm thanh, tròn vẹn tính nghe, từ lực phát sinh cùng khắp. Công phu tu tập này khiến cho chúng sinh, dù đi qua con đường nguy hiểm, cũng không bị giặc cướp làm hại (kinh quá hiểm lộ, tặc bất năng kiếp).

9. Quán Âm tức là huân tu tính nghe thanh tịnhxa lìa các trần tướng, sắc dục không thể quyến rũCông phu tu tập này khiến cho các chúng sinh nặng nghiệp tham ái rời xa tham dục (đa dâm chúng sinhviễn ly tham dục).

10. Quán Âm tức là lưu lại thuần một thật tướng của âm thanh, không còn mảy may đối tượng thanh trầncăn cảnh viên dung, không có năng sở đối đãiCông phu tu tập này khiến cho các chúng sinh nhiều nóng giận dứt bỏ sân hận (oán hận chúng sinh, ly chư sân khuể).

Như vậy, chỉ bằng phương pháp lắng nghe, mà hơn hết là lắng nghe tiếng nói của nội tâm, tiếng nói của lòng mình mà thành tựu Kim cang tam-muội, từ đó có diệu lựcnghe và hiểu hết mọi âm thanh của các giống loài, nhất là âm thanh kêu cầu cứukhổ của mọi loài chúng sinh, để đem đến cho họ 14 điều vô úy. Đó là nhân và hạnh nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm.

11. Quán Âm tức là tiêu trừ vọng trần đối tượng, xoay cái nghe về tự tính sáng suốt, từ ngoài pháp giới đến trong thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly, rỗng suốt không có gì chướng ngạiCông phutu tập này khiến cho tất cả chúng sinh ngu ngốc đần độn vĩnh viễn xa lìa si mê tăm tối (hôn độn tính chướng, chư a-để-ca, vĩnh ly si ám).

12. Quán Âm tức là tiêu trừ hết huyễn hình tứ đại, xoay tính nghe trở về nơi tịch diệt bất động, hòa nhập vào thế gian mà không hủy hoại thế giancúng dường chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, làm Pháp vương tử ở bên cạnh mỗi mỗi Đức PhậtCông phu tu tập này khiến cho tất cả những kẻ không có con trong khắp pháp giới, muốn cầu có con trai thì sinh được con trai phúc đức trí tuệ (dục cầu nam giả, đản sinh phước đức trí tuệ chi nam).

13. Quán Âm tức là sáu căn viên thông, chiếu sáng không hai, bao trùm mười phương pháp giới, thành chiếc kính lớn tròn đầy, thành không Như Lai tạng, vâng lãnh các pháp môn bí mật của chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, lãnh nhận không thiếu sótCông phu tu tập này khiến cho những kẻ không có con trong thế gian, muốn cầu có con gái, thì sinh được con gái xinh đẹpđoan chínhphúc đức, dịu hiền, mọi người yêu kính (dục cầu nữ giả, đản sinh đoan chínhphước đức nhu thuận, chúng nhân ái kính hữu tướng chi nữ).

14. Quán Âm tức là trong ba ngàn đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, các vị Pháp vương tử hiện trú ở thế gian nhiều đến 62 lần số cát sông Hằng, đều tu Phật pháp, làm mô phạmgiáo hóa và tùy thuận chúng sinhtrí tuệ và phương tiện mỗi ngài mỗi khác.

Vậy mà, do đã được nhĩ căn viên thông, phát ra diệu tính của nhĩ căn, sau đó thì thân tâm trở nên vi diệu, bao trùm cùng khắp pháp giới, cho nên có thể khiến cho người chấp trì danh hiệu của Bồ-tát, so với người chấp trì danh hiệu của 62 lần số cát sông Hằng các vị Pháp vương tử nói trên, phước đức của hai người này ngang bằng nhau, không có gì sai khác (phước đức chính đẳng vô dị).

Đó gọi là 14 sức vô úy thí, đem phúc lành đến khắp chúng sinh (ĐTK/ĐCTT, tập 19, trang 129a25).

Như vậy, chỉ bằng phương pháp lắng nghe, mà hơn hết là lắng nghe tiếng nói của nội tâm, tiếng nói của lòng mình mà thành tựu Kim cang tam-muội, từ đó có diệu lực nghe và hiểu hết mọi âm thanhcủa các giống loài, nhất là âm thanh kêu cầu cứu khổ của mọi loài chúng sinh, để đem đến cho họ 14 điều vô úy. Đó là nhân và hạnh nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Rõ ràngQuán Thế Âm là vị Bồ-tát thành danh hay mang tên gọi từ chính pháp môn mà Ngài tu tậppháp môn lắng nghe, tư duy và hành động; bắt đầu từ sự lắng nghe tiếng nói của lòng mình mà dần hiểu hết tiếng nói hay tâm tư, nguyện vọng của muôn loài chúng sinh, để rồi đi đến hành động thiết thực là ban rải tình thương không điều kiện. Một khi biết lắng tai nghe và nghe được với tâm tịch tĩnh trong sáng thì sẽ hiểu biết trọn vẹnviên thông. Ấy là lúc Bồ-tát dấn thân vào đời bằng tình thương vô bờ, gọi là vô ngại đại bi vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19020)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
(Xem: 17816)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 14039)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
(Xem: 14717)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14259)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16753)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24252)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20622)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18898)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21396)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18345)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19976)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14897)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 13022)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 14026)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13202)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14066)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17701)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15473)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14751)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14527)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17971)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 22046)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19603)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20731)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25198)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16995)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14832)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19101)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22044)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20747)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25409)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15897)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15829)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20771)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17124)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18709)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20074)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39374)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31580)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30731)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36088)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23928)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26600)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant