Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giác Ngộ Có Nghĩa Là Gì?

14 Tháng Hai 202418:25(Xem: 783)
Giác Ngộ Có Nghĩa Là Gì?

Giác Ngộ Có Nghĩa Là Gì?

Tỳ
 kheo Bodhi
Vô Minh 

 chu tieu2



Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiện ở Ấn Độ. Từ này có nghĩa là “giác ngộ” và những người tìm kiếm tâm linh thường thảo luận về câu hỏi “Đức Phật là ai? Ai đã giác ngộ?” Một lần nọ, một Bà-la-môn lớn tuổi tên là Brahmāyu nghe nói rằng đạo sĩ Gotama, người được đồn đại là Phật, đã đến thị trấn của ông và ông quyết định đến thăm ông. Khi vị Bà-la-môn già đến, Đức Phật đang thảo luậnvới nhiều người. Vì vị Bà-la-môn già này rất nổi tiếng nên khi ông đi vào giữa đám đông, mọi người đều nhường đường cho ông. Đức Phật cũng nhận ra rằng đây là một Bà-la-môn rất được kính trọng, là thầy của nhiều thế hệ đệ tử, nên Ngài yêu cầu Brahmāyu đến ngay phía trước hội chúng và ngồi bên cạnh ông.

Sau đó Brahmāyu nói với Ngài: “Thưa Tôn giả Gotama, tôi muốn hỏi Ngài một số câu hỏi.” Đức Phật mời ông hỏi điều ông đang thắc mắc, và vị Bà-la-môn trình bày các câu của ông bằng một bài kệ bốn dòng, điểm cơ bản của bài kệ là, “Làm sao một người có thể được gọi là Phật, một bậc Giác ngộ?” Đức Phật đáp bằng bài kệ:

 

“Điều cần biết thì ta đã biết;
Cái gì phải bỏ thì ta đã bỏ;
Cái gì cần phát triển thì ta đã phát triển;
Vì vậy, này Bà-la-môn, ta là một vị Phật.”

 

Câu trả lời này cho chúng ta biết một cách rất ngắn gọn ba đặc điểm của một bậc giác ngộ. Đây không chỉ là ba đặc tính của một vị Phật; chúng cũng là ba mục tiêu mà chúng ta hướng tới khi noi theo lời dạy của Đức Phật. Nếu có người hỏi: “Mục đích căn bản của việc quy y Tam Bảo là gì? Mục đích của bạn trong việc tuân theo giới luật là gì? Mục đích của bạn khi thực hành thiền là gì?” câu trả lời của bạn nên có ba điểm giống như thế: biết đầy đủ những gì nên biết; từ bỏ những gì nên từ bỏ; và phát triển những gì cần phát triển. Đây là những mục tiêu của con đường Phật giáovà ba thành tựu đánh dấu sự đạt được giác ngộ.

Nếu bạn quen thuộc với Bài giảng đầu tiên (kinh Chuyển Pháp Luân) của Đức Phật, bạn sẽ nhận rangay rằng ba nhiệm vụ này phù hợp với ba trong Tứ Diệu ĐếChân lý cao quý đầu tiên là chân lýcao quý về dukkha, thường được dịch là đau khổ, bất toại nguyện hoặc căng thẳngNhiệm vụ cần thực hiện liên quan đến chân lý cao cả về đau khổ này là gì? Chân lý cao quý về đau khổ (Khổ đế)là phải được “biết”, biết đầy đủ, hiểu đầy đủ một cách chính xácChân lý cao cả về nguồn gốc hay nguyên nhân của đau khổ (Tập đế) là ái dục, và nhiệm vụ phải thực hiện liên quan đến chân lý này là từ bỏái dục phải được “từ bỏ”. Chân lý cao quý thứ tư, Bát Thánh Đạo (Đạo đế), là chân lý cần phải được “phát triển”. Một chân lý cao quý không được đề cập đến trong câu kệ của Đức Phật là chân lý thứ ba, chân lý cao quý về sự chấm dứt khổ đau (Diệt đế). Điều này cũng có nhiệm vụ riêng của nó: sự chấm dứt đau khổ phải được “nhận ra”. Nhưng khi ba nhiệm vụ kia được hoàn thành, sự chứng ngộ chân lý cao cả về sự chấm dứt khổ đau sẽ tự nhiên theo sau.

Nói rằng nhiệm vụ của chúng ta là “biết điều nên biết” có nghĩa gì? Điều chúng ta phải biết, điều chúng ta phải hiểu, là những gì gần gũi nhất với chúng ta, những gì chúng ta thường coi là bản thânmình. Những gì chúng ta thường gọi là bản thân mình chính là sự phức tạp của cơ thể và tâm trí. Đối với hầu hết chúng ta, từ khi sinh ra cho đến khi chết, tâm trí chúng ta hướng ra bên ngoài, tham gia vào một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi về niềm vui và sự thỏa mãn nhục dục, để nâng cao bản thân, để xác nhận ý thức về bản thân của cái tôi-bản sắc (ego-identity). Rất ít người dừng lại và quay lại để cân nhắc câu hỏi: “Cái được gọi là bản thân mình là gì? Cái ‘tôi’ đằng sau sự ám chỉ mà tôi tạo ra cho chính mình là gì?” Tuy nhiên, nếu suy ngẫm một chút, bạn sẽ thấy rằng đây là câu hỏi quan trọng nhất mà chúng ta có thể hỏi. Nếu, từ ngày bạn sinh ra cho đến ngày bạn trút hơi thởcuối cùng, điều tốt nhất bạn có thể làm khi được hỏi: “Bạn là ai? Danh tính của bạn là gì?” là bạn rút bằng lái xe hoặc xuất trình giấy khai sinh mà không thực sự biết mình là ai hay mình là gì, thì bạn đã thực hiện một hành trình khá tồi tệ trong hành trình từ khi sinh ra cho đến khi chết.

Nhiệm vụ của chúng ta khi làm theo lời dạy của Đức Phật là tìm hiểu xem chúng ta gọi cái gì là “tôi”, “chính (tự) tôi”, “cái của tôi”, “tôi là gì”. Chúng ta thường dùng những thuật ngữ này để chỉ một loại thực thể dai dẳng nào đó, một bản ngã, một cái tôi thực chất sở hữu một danh tính thực sự. Nhưng Đức Phật dạy rằng tất cả những ý tưởng như vậy đều là lừa dối. Khi chúng ta xem xét, khi chúng tađiều tra những từ được đề cập đến, “tôi”, “chính tôi” và “bản thân của tôi”, những gì chúng ta tìm thấy chỉ là những thành phần của trải nghiệm thân và tâm. Để hỗ trợ việc điều traĐức Phật đã phân loại gọn gàng những thành phần của trải nghiệm thân và tâm thành năm nhóm. Chúng được gọi là “năm thủ uẩn” bởi vì chúng là những thứ mà chúng ta thường bám vào với ý tưởng, “Cái này là của tôi, đây là cái tôi là, đây là chân ngã của tôi.”

Vì vậychúng ta nhận thấy, đằng sau những khái niệm về “tôi” và “bản ngã”, chỉ có năm uẩn này: sắc uẩn của hình dạng cơ thể, chất liệu cấu thành nên cơ thể chúng tathọ uẩn: cảm giác dễ chịuđau đớn và trung tínhtưởng uẩn: chức năng tinh thần trong việc xác định đặc tính của sự vật, hành động xác định, nhận biết và ghi nhớ; tập hợp các hành uẩn, các chức năng khác nhau liên quan đến tác ý; và thức uẩn: ánh sáng của tánh giác khởi lên trên nền tảng của sáu căn.

Đối với mỗi chúng ta, đây là tổng thể của cái mà chúng ta gọi là bản thân mình. Nhiệm vụ của chúng ta khi làm theo lời dạy của Đức Phật là nhận biết, hiểu được bản chất thực sự của năm uẩnnày. Nhờ đó, chúng ta biết được điều gì tạo nên danh tính thực sự của chúng ta. Từ khi sinh ra, qua tuổi trưởng thành, đến tuổi già và cái chết, toàn bộ quá trình sống này chỉ là sự tiếp nối của năm uẩn gắn kết với nhau như những điều kiện và hiện tượng sinh khởi có điều kiệnThân uẩn hay sắclà nền tảng, và trên cơ sở này, các danh uẩn sinh và diệt. Thông qua thực hành thiền địnhchúng takhảo sát rất sâu sắc, với sự tập trung tinh tếbản chất của năm uẩn này khi chúng xuất hiện từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Chúng ta thấy chúng sinh, trụ và hoại diệt, điều này cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về vô thường. Từ sự hiểu biết về vô thường sẽ có cái nhìn sâu sắc về khổ đau, bản chất bất toại nguyện của năm uẩn. Khi đó chúng ta nhận ra rằng năm uẩn hay thay đổi này là không thể tin cậy, không an toàn, không đáng tin cậy, và do đó không thể được coi là tự ngã của chúng ta: chúng trống rỗng hoặc vô ngã.

Mục tiêu thứ hai mà Đức Phật dạy cho chúng ta là “từ bỏ những gì nên từ bỏ”. Những gì cần phảitừ bỏ là những phiền nãoĐức Phật dùng từ kilesas như một thuật ngữ tổng quát bao gồm tất cả các trạng thái tinh thần gây ra đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống của chúng ta. Lời dạy của Đức Phật đưa ra một sự nghiên cứu chi tiết về tâm, giúp chúng ta hiểu được tâm hoạt động như thế nào. Nhưng cuộc điều tra này không được thực hiện theo cách không có giá trị mà tâm lý học đương đại có thể mô tả hoạt động của tâm tríTâm lý học Phật giáo xác định các giá trị của nó một cách rõ ràng và sắc nét. Nó rút ra những khác biệt rõ ràng về mặt đạo đức, rút ra chúng mà không do dự hay mơ hồ, bởi vì những khác biệt về mặt đạo đức này có ý nghĩa quan trọng đối với mong muốn đạt được hạnh phúc và tránh đau khổ của chúng ta.

Theo lời dạy của Đức Phật, những hành động phi đạo đức và trạng thái tinh thần bất tịnh không bao giờ có thể mang lại hạnh phúc đích thực và lâu dài. Đúng hơn, những hành động phi đạo đức và những trạng thái tinh thần ô nhiễm chắc chắn sẽ nảy mầm trong bất hạnhđau khổ. Đúng là những trạng thái tâm ô nhiễmđặc biệt là tham lam và thèm muốn, thường đi kèm với lạc thú và thích thúNếu không phải như vậy thì thế giới sẽ tràn ngập những người giác ngộTuy nhiênlạc thú đi kèm với tham ái và tham lam hiện tại chỉ là lớp áo bề ngoài che đậy hạt giống xấu. Khi hạt giống đó nảy mầm và sinh hoa trái, nó sẽ mang lại đau khổ ở đời này, hoặc nếu không ở đời này thì ở những đời sau. Ngược lại, những trạng thái tâm thiện đôi khi có thể đi kèm với nỗi đau hiện tại, bởi vì để phát triển chúng, chúng ta phải đi ngược dòng, đi ngược lại bản chất tự nhiên của tâm. Nhưng khi những trạng thái thiện lành đó đơm hoa kết trái, chắc chắn chúng sẽ dẫn đến hạnh phúcbình an và an lạcnội tâmMột lần nữa, đây là một phần của cùng một luật, luật nhân quả đạo đức.

Những trạng thái tinh thần bất thiện được gọi là kilesas. Từ này có thể được dịch là phiền não vì chúng mang lại đau khổ. Nó cũng có thể được dịch là ô nhiễm vì chúng làm ô uế và làm bại hoạitâm tríĐức Phật đã phân tích bản chất của các phiền não và giải thích một cách hay ho làm thế nào chúng có thể được truy nguyên từ ba “ô nhiễm gốc” là tham, sân và si. Nhiệm vụ của chúng tatrong việc noi theo lời dạy của Đức Phật, trong việc thực hành Giáo Pháp, là khắc phục, loại trừ, từ bỏ các phiền não tham và sân vốn làm phát sinh nhiều nhánh phiền não khác. Nhưng tham lam và sân hận cuối cùng đều xuất phát từ si mê hay vô minh. Và như vậy để loại bỏ mọi phiền nãochúng ta phải loại bỏ vô minh.

Vô minh là cái che đậy năm uẩn, những gì chúng ta gọi là tôi, của tôi và bản thân tôi. Vì vậy, cách khắc phục vô minh hay ảo tưởng là thông qua nhiệm vụ đầu tiên “biết những điều cần biết”. Khi chúng ta biết những điều cần biết, vô minh sẽ biến mất - tham, sân và tất cả các phiền não khác đều biến mất. Tuy nhiên, không thể thực hiện được điều này nếu chỉ có mong muốn làm như vậy. Chúng ta không thể mong đợi chỉ nghĩ rằng: “Tôi muốn biết điều cần biết” và ngay lập tức nó được biết. Đó là lý do tại sao toàn bộ sự thực hành Phật giáo là một quá trình đi trên một con đường(đạo). Món quà vĩ đại mà Đức Phật ban tặng cho thế giới không chỉ đơn giản là một triết lý sâu sắc, không đơn giản là một tâm lý sâu sắc mà là một con đường từng bước thực tế, có hệ thống mà chúng ta có thể trau dồi trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Tu tập theo con đường có nghĩa là “phát triển những gì cần được phát triển”. Đây là dự án thứ ba mà Đức Phật nói đến trong bài kệ bốn dòng của Ngài: “Cái cần được phát triển, thì ta đã phát triển.” Vì thế những gì Đức Phật đã phát triển là những gì chúng ta phải phát triển. Người ta tu tập con đường để “từ bỏ những gì nên từ bỏ”, tức là những phiền não. Và một lần nữa, người ta trau dồi con đường để “biết điều cần biết”, năm uẩn.

Việc phát triển con đường thực hiện điều này như thế nào? Một lần nữa, con đường được cấu trúc theo cách mà nó tiến triển không đột ngột, không đột ngột mà từng bước một để giúp chúng ta leo lên các bậc thang dẫn đến giải thoát giác ngộ tối thượng. Người ta phải bắt đầu bằng cách kiểm soát những biểu hiện thô thiển hơn của phiền não. Người ta thực hiện điều này bằng cách tuân giữ giới luật (giới). Người ta giữ Ngũ Giới hay Bát Giới. Những điều này kiểm soát những biểu hiện thô thiển hơn của phiền não, những phiền não bùng phát dưới hình thức những hành động bất thiện.

Việc giữ giới không chỉ là vấn đề tránh những hành động tiêu cực. Người ta cũng phải trau dồi những hành động tương ứng của mình: những hành động đạo đức, thiện lành. Những điều này tràn ngập tâm trí với những phẩm chất thanh tịnh và thanh lọc. Người ta phải có lòng từ bi và tử tế đối với người khác, trung thực trong cách cư xử với người khác, luôn trung thực trong giao tiếp, có trách nhiệm với gia đình và xã hộithực hiện chánh mạngtinh tấntôn trọng người khác... , kiên nhẫn trong hoàn cảnh khó khăn, khiêm tốn và ngay thẳng. Tất cả những đức tính này dần dần giúp tâm thanh tịnh và làm cho tâm sáng suốttrong sạch và rạng ngời.

Để phát triển những gì cần phải phát triển, chỉ trau dồi đạo đức thôi thì chưa đủ. Người ta phải đi xa hơn và trau dồi sự tập trung (định). Khi chúng ta cố gắng thu thập và tập trung tâm trí, chúng ta bắt đầu hiểu tâm trí mình hoạt động như thế nào. Chúng ta có được cái nhìn sâu sắc về hoạt động của tâm trí mình. Bằng cách hiểu được hoạt động của tâm trí chúng tachúng ta đang dần thay đổi hình dạng của tâm trí. Đầu tiên, chúng ta đang bắt đầu làm suy yếu và xói mòn những phẩm chất bất thiện làm ô nhiễm tâm tríChúng ta đang cạo bỏ lớp đất mà rễ bất thiện đã bám vào. Chúng ta phải nhớ rằng những rễ bất thiện đã nằm sẵn trong tâm chúng ta từ vô thủy. Quá trình này không phải là một quá trình nhanh chóng hay dễ dàng mà đòi hỏi nỗ lực dần dầnkiên trì và tận tâm.

Khi người ta thực hành một cách nhất quáncuối cùng tâm sẽ ổn định vào sự tập trung vững chắc. Nó đạt được những kỹ năng cần thiết để duy trì sự ổn định trên một đối tượng một cách nhất quán, không dao động, và điều này tạo cơ hội cho trí tuệ phát sinh (tuệ). Trí tuệ là phẩm chất thứ ba cần được phát triển. Trí tuệ đến qua sự xem xét, qua sự điều tra.

Chắc chắn rằng trí tuệ không chỉ phát sinh từ sự tập trung thiền định. Ngay cả trong cuộc sống hằng ngày của bạn, khi bạn nghiên cứu những lời dạy của Đức Phậtđặc biệt là những bài kinhquan trọng về phát triển trí tuệ, chẳng hạn như lời dạy về ngũ uẩnduyên khởi và Tứ Diệu Đế, bạn đang tìm hiểu Giáo pháp, và từ đó tạo điều kiện cho trí tuệ. Bạn đang tạo ra một trí tuệ khái niệm đã bắt đầu đào sâu tận gốc rễ của vô minhVì vậy, chỉ bằng cách nghiên cứu giáo lý và suy ngẫm về lời dạy, bạn đã lay chuyển được gốc rễ sâu xa của vô minh.

Nhưng trí tuệ tối thượng là kinh nghiệm. Khi một người đã phát triển tâm định mạnh mẽ, người ta sẽ sử dụng tâm đó để khảo sát năm uẩn. Khi quan sát trải nghiệm của chính mình, người ta sẽ trực tiếp nhìn thấy bản chất thực sự của chúng, vào “đặc tính thực sự của các hiện tượng”. Nói chung, trước tiên người ta thấy sự sinh diệt của năm uẩn. Tức là người ta thấy được sự vô thường của chúng. Người ta thấy rằng vì chúng vô thường nên chúng bất toại nguyện. Chẳng có gì đáng để bám víu vào chúng. Và bởi vì chúng là vô thường và bất toại nguyện, nên người ta không thể đồng nhất với chúng như một bản ngã thực sự hiện hữu. Đây là bản chất trống rỗng hay vô ngã của năm uẩn. Điều này đánh dấu sự phát sinh của trí tuệ minh sát thực sự.

Với trí tuệ minh sát, người ta ngày càng cắt sâu hơn vào gốc rễ của vô minh cho đến khi người ta hiểu đầy đủ bản chất của năm uẩn. Khi làm như vậy, người ta có thể nói rằng mình đã “biết điều nên biết”. Và nhờ biết rõ những gì cần biết, những phiền não “cần được loại bỏ đã bị loại bỏ,” và con đường “cần được phát triển đã được phát triển.” Khi đó người ta nhận ra điều cần được nhận ra, sự diệt trừ đau khổ ngay tại đây và bây giờ. Và, theo lời của Đức Phật, đó là điều tạo nên một bậc giác ngộ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17755)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 13979)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
(Xem: 14713)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14257)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16748)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24239)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20620)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18894)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21390)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18337)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19911)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14890)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 13016)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 14019)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13190)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14060)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17695)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15463)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14747)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14521)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17908)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21973)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19527)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20648)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25191)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16923)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14752)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19025)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22036)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20672)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25337)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15823)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15820)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20761)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17060)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18691)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20069)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39372)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31572)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30718)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36079)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23920)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26591)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant