Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Bị Thách Thức Bởi Văn Hóa Đương Đại?

26 Tháng Hai 202417:47(Xem: 643)
Phật Giáo Bị Thách Thức Bởi Văn Hóa Đương Đại?

Phật Giáo Bị Thách Thức Bởi Văn Hóa Đương Đại?

John Peacocke
 [1]

Vô Minh 

 
hinh phat 9


Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến chúng ta cho dù khoảng cách hai thiên niên kỷ rưỡi và những khác biệt văn hóa to lớn. Mặc dù có thể còn quá sớm để nói về một hình thức Phật giáo 'phương Tây' rõ ràng, nhưng chắc chắn rằng bất kỳ hình thức Phật giáo mới xuất hiện nào như vậy sẽ phải giải quyết những vấn đề đặc biệt của thế giớiđương đại. Sự thành công hay thất bại của một hình thức mới xuất hiện như vậy sẽ được đo lường dựa trên khả năng của 'truyền thống' này trong việc tham gia, cả ở cấp độ cá nhân và xã hội, với những vấn đề đang bủa vây con người trong thế giới hiện đạiĐặc biệtPhật giáo 'phương Tây' sẽ buộc phải giải quyết những câu hỏi mà có lẽ, đối với các hình thức truyền thống và dựa trên tu viện, vẫn nằm ngoài phạm vi của nó. Hơn nữa, nếu việc thực hành Phật giáo không chỉ dừng lại ở một số hiện tượng sùng bái bị gạt ra ngoài lề trong thế giới phương Tây, thì nó sẽ cần phải can dự một cách nghiêm túc vào một loạt các vấn đề như kinh tế, chính trị, đạo đức môi trường và xã hội. Việc hình thức Phật giáo mới và khác biệt này được mong đợi sẽ có câu trả lời cho những câu hỏi này không thực sự là vấn đề ở đây; đúng hơn, khả năng của hiện tượng tôn giáo mới này ở giai đoạn này là chỉ đơn giản tham giavào các câu hỏi quan trọng.

Không còn nghi ngờ gì nữaquan điểm tôn giáo của Phật giáo đưa ra một thách thức độc đáo đối với văn hóa đương đại nhưng bản thân nó cũng bị thách thức theo những cách mà trong lịch sửchưa từng xảy ra. Một cách mà lý thuyết và thực hành Phật giáo có thể bị thách thức trong thế giớiđương đại là thông qua sự thống trị của kinh tế và sự thay đổi thất thường của thị trường toàn cầu. Ngay cả trong thuật ngữ lịch sử phương Tây, sự tăng trưởng và thống trị của thương mại và kinh tế là một hiện tượng tương đối mới và có thể bắt nguồn từ sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ 18.

Thoạt nhìn, phản ứng truyền thống của Phật giáo với sự nhấn mạnh vào việc bác bỏ nhục dục và vật chất hầu như không đưa ra được giải pháp nào. Tuy nhiênchủ nghĩa tư bản hung hãn và tràn lan đó không phải là không bị chỉ trích trong thế giới phương Tây, được chứng kiến bằng các cuộc biểu tình ngày càng bạo lực ở các thành phố lớn cả ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Những người biểu tìnhchống lại các tổ chức như Tổ chức Thương mại Thế giới đã bị cả chính phủ và giới truyền thông phỉ báng là một số kẻ mất tríTuy nhiên, nhiều người biểu tình có thể được xem đơn giản là những cá nhân đặt câu hỏi về sự phát triển của một chủ nghĩa tư bản quyết đoán và không bị cản trở.

Điều dường như gây ra sự phẫn nộ của các chính trị gia và giới truyền thông đối với những người biểu tình như vậy không phải là thiệt hại về tài sản - mà trong một số trường hợp là khá đáng kể - mà là cuộc tấn công trực tiếp vào những thần thoại vĩ đại của thế giới phương Tây; cụ thể là, sự giàu có về kinh tế gia tăng sẽ dẫn đến hạnh phúc và thuyết quyết định kinh tế đó rõ ràng là hợp lý. Những điều này cùng với nhiều nguyên lý đáng nghi ngờ khác đại diện cho lý do căn bản đằng sau phần lớn chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Tuy nhiên, việc phản đối những nguyên lý này không phải là mới.

Đức Phật sống vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Ngài có thể được mô tả là người đầu tiên trong số những người “từ bỏ” hoàng gia, đã chứng minh rõ ràng sự phản đối như vậy. Về nhiều mặt, thế giới của thế kỷ thứ năm trước Công nguyên Ấn Độ hoàn toàn khác biệt với thế giới đương đại, tuy nhiên nhiều giá trị làm nền tảng cho xã hội Ấn Độ trong thời kỳ đó lại không quá khác biệt so với thế giới đương đại. Theo những truyền thuyết và thần thoại nổi tiếng xung quanh cuộc đờicủa Đức Phật, ngài sinh ra không phải là một nông dân thất học mà là một người xuất thân cao quý, người được khuyến khích trau dồi sở thích về những giá trị thống trị xã hội của mình; cụ thể là thành công vật chất và nhục dục. Đức Phật, giống như đại đa số người ở thế giới phương Tây, được khuyến khích trau dồi sở thích về vật chất và thú vui nhục dục như một phương tiện để tìm kiếm hoặc đạt được 'hạnh phúc'.

Địa vịthành công vật chất và sự đam mê nhục dục là những giá trị gần như không thể tránh khỏilàm nền tảng cho loại lý thuyết kinh tế được giảng dạy trong các trường kinh doanh đương đại ở thế giới phương Tây. Những giá trị như vậy được coi là điều kiện tiên quyết cho “hạnh phúc” mà văn hóa phương Tây mang lại. Do đó, không phải ngẫu nhiên, từ quan điểm Phật giáođau khổ(dukkha) là một hệ quả không có gì đáng ngạc nhiên của thời hiện đại và những hình thức sống đi kèm với nó.

Tuy nhiên, chính những giá trị này mà Đức Phật đã cố tình bác bỏ trong hành trình tìm kiếm sự giải thoát khỏi sự bất mãn và đau khổ (dukkha) dường như đang thống trị và hạn chế cuộc sống con người. Khi bác bỏ một cách có ý thức các giá trị của xã hội như một phương tiện để đạt được hạnh phúcĐức Phật đã xác định nguyên nhân dẫn đến sự bất mãn của loài người là do một 'cơn khát' (tanha) hay thèm muốn không thể nguôi ngoai. Một biểu hiện của sự khao khát này là nỗ lực trốn tránh các vấn đề hiện hữu của tuổi già, bệnh tật và cái chết bằng cách tích lũy tiền bạc và của cảivật chấtTuy nhiên, như Đức Phật đã nhận định, những vấn đề này chỉ có thể trốn tránh được một thời gian và cuối cùng chúng sẽ ập đến với mỗi cá nhân - dù giàu có hay thành công đến đâu.

Do đó, trong thế giới đương đại, sự giàu có và dư thừa mà các cá nhân cảm nhận xung quanh họ có thể khiến họ mù quáng trước những thực tế hiện sinh đang củng cố và làm xói mòn sự tồn tạidường như an toàn của họ. Theo quan điểm của vũ trụ học truyền thống Ấn Độ, người phương Tây, phần lớn, sống cuộc sống của các vị thần (devas) và cũng giống như các vị thần, họ không có mong muốn hay động cơ để xem xét và đặt câu hỏi về sự tồn tại của các vị thần. Tất nhiên, doanh nghiệp kinh doanh quốc tế sẽ không chấp nhận điều này; nó có lợi ích đặc biệt trong việc phổ biếnnhững công thức cũ về “hạnh phúc”. Tuy nhiên, như chúng ta hiện đang bắt đầu nhận ra, quy mô to lớn của kinh doanh thương mại – trên quy mô toàn cầu hiện đang được thể hiện – có một mặt tối.

Các hoạt động thương mại toàn cầu hóa, nhằm cung cấp của cải vật chất cho cơn khát tham áikhông thể nguôi ngoai của nhân loại, đang gây ra mối đe dọa rất thực tế cho cuộc sống tương lai trên hành tinh. Chính nhận thức này đã gây ra nhiều sự tức giận chống lại các doanh nghiệp, chính phủ và Tổ chức Thương mại Thế giới. Một biểu hiện của sự tức giận này được thấy rõ qua các cuộc biểu tình diễn ra ở cả Châu Âu và Châu Mỹ.

Tuy nhiênĐức Phật đã vạch ra con đường trí tuệ và từ bi, khởi đầu một con đường (magga, đạo) có thể được coi là một 'cuộc cách mạng hòa bình'. Đức Phật trong suốt sự nghiệp giảng dạy lâu dàicủa mình - gần 45 năm - đã nhấn mạnh việc trau dồi đạo đức và giảm bớt những mối quan tâm tự kỷ là điều cần thiết cho con đường 'tỉnh thức' của Ngài. Sự tức giận, cho dù 'chính đáng' đến đâu, như Ngài đã dạy - và trong điều này có một thông điệp dành cho những người biểu tình đương thời - không bao giờ được biện minh vì nó chỉ đơn giản dẫn đến việc duy trì lòng hận thù trong thế giới.

 

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi.

Ai ôm hiềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi.

(Pháp Cú, kệ 3)

 

Tuy nhiên, có thể coi Đức Phật là người có một thông điệp rộng lớn hơn nhiều dành cho những người ủng hộ và tán thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu không kềm chế hiện nay; điều quan trọng nhất đối với con đường này là việc kiểm tra tham, sân và si của chính mình. Trọng tâm thông điệpcủa Đức Phật là giảm bớt niềm tin rằng của cải vật chất có thể ngang bằng với hạnh phúc. Khi thành lập Tăng đoànĐức Phật đã dạy họ phải ‘bằng lòng với cái ít’ (thiểu dục).

Các nhà sư và trong một số trường hợp là các nữ tu, cho đến ngày nay vẫn được coi là trung tâmcủa các xã hội Phật giáo truyền thống. Những nhân vật như vậy trong các xã hội truyền thống là 'những người từ bỏ'; nghĩa là họ đã từ bỏ xã hội và lối sống gia đình để theo đuổi sự nghiệp tu trìTuy nhiên, trong quá trình truyền bá Phật giáo vào xã hội phương Tây, chủ nghĩa tu viện dường như không đóng vai trò chủ đạo như nó có trong các nền văn hóa Phật giáo truyền thống. Điều này có nghĩa là những hình thức thực hành mới sẽ phải phát triển đối với một Tăng đoàn phần lớn không xuất giaTuy nhiên, câu nói của Đức Phật về việc học “bằng lòng với cái ít” có lẽ có một số tiếng vang đối với chúng ta trong thế giới phương Tây.

Trong khi phần lớn các hành giả Phật giáo phương Tây sẽ không bao giờ khoác áo tu sĩ, câu hỏi liệu chúng ta có thể “bằng lòng với cái ít” hay không đang đối mặt với chúng ta ngày càng cấp bách. Liệu loài người phương Tây có thể học cách tìm kiếm hạnh phúc và hòa bình ở những thứ khác ngoài của cải vật chất do các công ty kinh doanh cung cấp không? Đây là một câu hỏi thực tế và cấp bách đối với thế giới phương Tây và tất cả những ai sống trong thế giới đó. Tuy nhiêncuộc đờicủa Đức Phật, trong các truyền thống khác nhau của Phật giáo, có thể được coi là đại diện cho một mô hình về ý nghĩa của việc sống một cuộc sống hoàn toàn thay thế thông qua việc xuất gia.

Tuy nhiênPhật giáo mới nổi của thế giới phương Tây lại hoàn toàn bác bỏ kinh tế và thương mạinên đứng trước nguy cơ bị gạt ra ngoài lề xã hộiVì vậy, câu hỏi đặt ra đối với hình thức Phật giáonày, nếu nó không bị đẩy ra bên lề xã hội, là liệu các giá trị Phật giáo có thể tìm được một chỗ đứng trong quyền bá chủ hùng mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây hay không. Nếu muốn làm như vậy, và các Phật tử phương Tây muốn tham gia vào thế giới thương mại, thì cần phải tìm cách thỏa thuận với quyền bá chủ đó mà không từ bỏ các giá trị cốt lõi của Phật giáo. Tất nhiên, điều này có nghĩa là phải xem xét kỹ lưỡng việc bán những giấc mơ mà phương Tây đã đam mê rao từ lâu và đặt câu hỏi sâu sắc về câu thần chú của phương Tây rằng 'sự giàu có về kinh tế dẫn đến hạnh phúc'.

Những người theo đạo Phật ở thế giới phương Tây có sẵn những công cụ nào để tiến hành một cuộc tìm hiểu tự do về các phong tục tập quán của xã hội đương đại và vị trí của họ trong xã hộiđó? Các ứng cử viên rõ ràng bao gồm sự phát triển giới luật hay đạo đức, như được nêu trong Bát chánh đạo dưới các hình tượng Chánh ngữChánh nghiệp và Chánh mạng, cùng với chánh niệm(sati), đóng vai trò hỗ trợ cho sự phát triển của những đức tính này. Điều này có ý nghĩa gì trong thực tế? Ví dụ, nó sẽ yêu cầu các giao dịch trong thị trường thương mại diễn ra mà không cần nói dối, ngay cả theo những cách tinh vi nhất.

Bản thân điều này đương nhiên là một thách thức lớn vì nói dối đang ở mức độ bệnh lý, không chỉ trong thế giới doanh nghiệp và tài chính mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống công cộng. Từ các doanh nhân đến các chính trị giaxã hội chúng ta đang có một tình trạng bất ổn thực sự liên quan đến “sự thật”. Nói dối và đạo đức giả là đặc hữu của xã hội chúng ta và có lẽ đúng như một triết giađã đề xuấtchúng ta không có khả năng "chịu đựng quá nhiều sự thật". Chứng mất trí nhớ đạo đứchay 'sự quên lãng' đối với sự thật này được phản ánh trong mọi tầng lớp trong xã hội chúng ta; cả trong các cá nhân và những người nắm giữ chức vụ công, việc 'nói thật' có giá trị rất thấp. Vì vậy, không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của nhiệm vụ mà một “văn hóa” Phật giáo đang nổi lên ở phương Tây phải đối mặt vì nó phải đối mặt với một tập thể văn hóa dối trá áp đảo.

Ngoài ratư tưởng và thực hành Phật giáo sẽ cần phải tiếp xúc với nhiều khía cạnh đa dạng của văn hóa phương Tây. Một số cuộc đối thoại này đang bắt đầu diễn ra với sự tham gia của các diễn ngôn về tâm lý học, tâm lý trị liệutriết học và khoa học. Tuy nhiên, ngay cả trong những bộ môn này, tiếng nói phàn nàn của Phật giáo cũng bị đẩy ra ngoài lề. Ví dụ, 'triết học' Phật giáo sẽ không được đề cập đến trong ngành triết học mà sẽ được tìm thấy trong các khoa Nghiên cứu Tôn giáotrong hệ thống đại học. Điều tương tự cũng có thể nói về lý thuyết tâm lý Phật giáoTuy nhiên, đây mới là những ngày đầu và điều quan trọng là cuộc đối thoại đã bắt đầu. Việc đây chỉ là những khởi đầu mang tính thăm dò bản thân nó không phải là một vấn đềTuy nhiên, như đã đề cập, một cuộc đối thoại thực sự có tính phê phán với văn hóa phương Tây sẽ dẫn đến sự chuyển đổi cả những mối quan tâm truyền thống của Phật giáo và có lẽ cuối cùng là sự chuyển đổi của chính văn hóaphương Tây.

 

Ghi chú cùa người dịch

 

[1] Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism), Tập. 3, số 1, 2002

Tác giả: John Peacocke, Đại học Bristol & Sharpham, Vương quốc Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1539)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1398)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1250)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1322)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1379)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1356)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1480)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1376)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1442)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1435)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1326)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1392)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1402)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2102)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1440)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1463)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1332)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1585)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1449)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1294)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1263)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1324)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1298)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1445)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1165)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1159)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1205)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1349)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1373)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1127)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1252)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1179)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1353)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1325)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1474)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1571)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1320)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1277)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1421)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1471)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1381)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1729)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1362)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1345)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1396)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1225)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1267)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1392)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1518)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant