Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Tu” Trong Đạo Phật

16 Tháng Ba 202416:10(Xem: 555)
“Tu” Trong Đạo Phật

“Tu” Trong Đạo Phật

Thích Nữ Hằng Như

 
chu tieu.jpg.4

I.  “TU” LÀ GÌ?

Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn. Cái tốt đẹp và lương thiện ở đây dựa trên nền tảng đạo đức không tổn hại người, không tổn hại mình, không tổn hại cả đôi bên.  

Nếu vô tình hay cố ý phạm lỗi lầm gây phiền não cho một người nào đó, hay làm tổn thương bất cứ một con vật nào, người ấy cảm thấy hối hận và có hành động sửa sai bằng cách xin lỗi, bù đắp sự tổn thương cho nạn nhân và nguyện trong lòng sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Hành động sửa sai tích cực này gọi là “tu”. Người sống ở đời mà giữ được tâm trong sạch, luôn có những hành động lời nói thiện lành, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, chung thủy với người bạn đời, chăm sóc con cái tử tế...  thì đó cũng là một hình thức “tu”tại gia vậy!

 Nghĩa chữ “tu”  không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó. Chẳng hạn như một người sống trong thiền viện ngoài vấn đề học hỏi kinh điển, người ấy tinh cần trong việc hành trì giới luậtthực tập phòng hộ các căn, tiết độ ăn uốngthực hành tứ thiền v.v... người đó được gọi là “người đang tu”. Như vậy chữ “tu” ở đây còn có nghĩa là “hành trì tu tập”, “giữ gìn thiện pháp”, “buông bỏ ác pháp”....

 

II. PHÁP “TU” CỦA CƯ SĨ TẠI GIA

Phật tử tại gia phát nguyện nương tựa vào Tam Bảothọ trì năm giới là điều cần thiết để tu. Những giới đó được kể như sau:

- Giới thứ nhất tại sao Đức Phật dạy không được sát sanh? Ở đời có loài hữu tình nào không ham sống sợ chết. Là người có tình cảm, chúng ta yêu quý sanh mạng của mình, tôn trọng sanh mạng của người thân mình, thì không có lý do gì hại sinh mạng người, vật, đang sống xung quanhmình.  Chẳng những không giết hại sinh mạng của chúng sanh, mà còn phải hết sức cứu giúp bảo vệ mạng sống của mọi người, mọi loài. Không thể thấy sinh vật hay người bị nạn mà làm lơ không cứu. Ngày nay có nhiều Phật tử chọn trường chay trong việc ăn uống, lại thường hay phóng sanhcá, rùa, ếch nhái, chim muông v.v... cho chúng được tự do thoát khỏi cái chết đang đe dọa. Đó là những việc làm từ bi nhằm bảo vệ sinh mạng loài hữu tình, dù chúng chỉ là loài động vật.

Giới cấm thứ hai là không được trộm cắp lấy của không cho. Tiền bạc của cải là mạch sống của con người. Muốn cho đời sống được bảo đảm người ta phải làm việc cật lực mới kiếm được đồng tiền nuôi sống gia đình. Nếu bị kẻ xấu trộm mất, thì gia đình người ta lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, nhất là những gia đình không được dư giả. Thử đặt mình vào hoàn cảnh kẻ bị trộm thì mình có đau khổ hay không? Cho nên người tu chân chánh thì không được phạm giới trộm cắp, ngược lại nên bố thí giúp đỡ những hoàn cảnh ngặt nghèo, khó khăn, trong khả năng của mình.

 - Giới cấm thứ ba là không tà hạnh mà phải sống với chánh hạnhTà hạnh đây là xâm phạm đến tiết hạnh của người khác. Người giữ được giới này bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Nếu vợ hoặc chồng chia sớt tình cảm, liên hệ tình dục với người ngoài, sẽ biến gia đình đang hạnh phúc trở thành địa ngục trần gian, noi gương xấu cho con cháu. Cho nên mình muốn bảo vệ tình cảm gia đình mình, thì không nên phá hoại tình cảm gia đình người khác.

Giới cấm thứ tư là không nói dối. Sống trong một nhà, chồng vợ nói dối với nhau nhiều lần, khi bị phát giác sẽ làm mất niềm tin yêu của nhau, cuộc sống không còn tự nhiên, là một trong nhiều cơ hội dễ đưa tới sự tan vỡ. Ngoài  cộng đồng, nơi công sở, mình có tật hay nói dối, sẽ có một ngày người ta biết được. Thế là mình sẽ bị mọi người ghét bỏ và xa lánh. Cho nên Đức Phật dạy sống ở đời không nên nói dối, không nói lời lường gạt để thủ lợi, hay chia rẻ người này với người kia, không nói lời hung dữ, tục tằn mà nói lời thanh tao nhẹ nhàng và chân thật.

- Giới thứ năm là không uống rượu mạnh, ngày nay thuốc phiện, xì ke, ma túy hay những loại thuốc làm thần kinh mê muội, cũng được kể vào giới cấm này. Chất rượu mạnh làm tổn thương nội tạng của người ghiền rượu, làm cho tâm thần người say rượu không phân biệt được phải trái, đúng sai, nên có những hành động lời nói mất lý trí gây tổn hại đến người khác. Ngoài ra, người “nhậu say” lái xe trên đường phố thường gây tai nạn chết người. Khi chuyện đau lòng xảy ra, có hối hậncũng vô ích. Vì thế người nào ghiền nhậu nhẹt, tham dự vào các trò chơi xì ke, ma túy...  là người đã phạm giới.

Gút lại, bước đầu vào đạo, Đức Phật dạy chúng ta phải giữ năm giới. Người tu  năm giới là người sống đạo đức ngoài đời cũng như trong đạo. Đạo đức vì người này đã mang niềm vui, hạnh phúccho người hay vật sống quanh mình. Khi tạo niềm an lạc hạnh phúc cho người khác, thì chính bản thân mình cũng sẽ hưởng được niềm an lạc hạnh phúc như người ta. Đó là nói khi còn sống trên cõi đời này, đến khi thân hoại mạng chung sẽ sanh về cõi lành. Cõi lành đó, có thể là cõi người, nhờ nhân thiện trong đời sống hiện tại sẽ sanh quả tốt trong đời sống tương lai, được trường thọan lạchạnh phúc v.v... hay cao thượng hơn được sanh lên cõi trời hưởng phước.

 

III. “TU” GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT

Tùy theo căn cơ và nguyện vọng của mỗi chúng sanh, trong đạo Phật có nhiều pháp tu cao thấp, khó dễ... khác nhau. Cư sĩ bình thường thọ trì năm giới giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, làm lành lánh dữ, đưa đến kết quả là ngay trong đời sống này, họ được hưởng niềm an vui hạnh phúc. Nhưng có nhiều người muốn tiến xa hơnmục tiêu của họ là hướng tới giác ngộ giải thoát, những vị đó từ bỏ đời sống gia đình gia nhập vào đoàn người xuất gia học Phật.

Tu giác ngộ giải thoát ngoài việc giữ thân khẩu ý thanh tịnhĐức Phật dạy các vị ấy phải tu tập và thành tựu các pháp thuộc Giới-Định-Huệ như sau:

1. Giới hạnh: Đầu tiên Đức Phật dạy người tu sĩ phải nghiêm trì Giới hạnh. Người giữ giới hạnh là người thọ trì các Giới do Đức Phật chế lập. Người ấy có đầy đủ oai nghi tế hạnh, thấy sự nguy hiểm của những lỗi từ nhỏ nhặt đến lỗi nặng ảnh hưởng đến đời sống đạo đức nên không dám phạm. Tu sĩ nam tức  Tỷ-kheo thọ trì 250 giới. Tu sĩ nữ tức Tỷ-kheo-ni thọ trì 348 giới.

2. Hộ trì các căn:  Pháp kế đến, Phật dạy người tu phải lo phòng hộ các căn. Các căn đây chính là sáu giác quan của con người.  Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.  Sáu căn này là sáu cánh cửa tiếp nhận sáu trần cảnh, nó có khả năng  đưa con người đến cảnh giới thanh tịnh giải thoát, hay cảnh giới trầm luân khổ đau, tùy nơi sự tu tập  thân tâm của người đó. Thông thường khi giác quan tiếp xúc với trần cảnh, ngay lúc đó tâm liền  khởi lên tham áiưu bilo lắng hay phiền não...   Đó là thói quen của người chưa biết tu pháp phòng hộ các căn.

Muốn thoát khỏi phiền nãoĐức Phật dạy phải hộ trì các căn, tức giữ cho các căn không bị độngbằng cách khi tiếp xúc với đối tượng không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Nghĩa là khi mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, thân xúc chạm, chỉ biết cái đang là của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tức là tai nghe âm thanh chỉ biết đó là âm thanh. Mắt thấy sắc chỉ biết đó là sắc.  Lưỡi, mũi, thân tiếp xúc với vị, hương, mềm mại mát mẻ như thế nào thì biết như thế thôi, không suy nghĩ phán đoán gì thêm. Tập như vậy lâu dần tâm sẽ không có phản ứng khi các căn tiếp xúc với đối tượng. Đó là cách phòng hộ các căn. Khi các căn không động, thì tâm hànhgiả sẽ được yên lặng.

3. Tiết độ ăn uống: Ăn uống điều độ không ham thích chọn lựa thức ăn cầu kỳ hợp khẩu vị để trị tánh tham sân. Vấn đề ăn uống ở đây chỉ nhằm giúp duy trì bảo dưỡng thân không bị bệnh đói hành hạ, có thân khỏe mạnh để chấp trì phạm hạnh

4. Chú tâm cảnh giác: Trong mọi sinh hoạt ban ngày cũng như ban đêm. Khi kinh hànhtọa thiềntu tập trong bốn oai nghitâm trí gột khỏi các chướng ngại pháp như năm triền cái. Đó là từ bỏtham, sân, tăng lòng từ mẫn thương xót chúng sinh hữu tìnhTừ bỏ hôn trầm, tâm luôn tỉnh giácTừ bỏ trạo cửnội tâm được yên lặng. Từ bỏ nghi ngờ đối với các thiện pháp, vị ấy thoát khỏi sự phân vân lưỡng lự thẳng tiến một đường tu.

Ngoài ra còn có bảy diệu pháp người tu cần thành tựu đó là: 

1.Tín: Có lòng tin ở sự giác ngộ của Đức Phật. Ngài là bậc A-La-Hán, Chánh đẳng giácMinh hạnh túcThiện thệThế gian giảiVô thượng sĩĐiều ngự trượng phuThiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.

2. Tàm: Có lòng tự trọng, ghê sợ điều xấu xa tội lỗi.

3. Quý: Cảm thấy xấu hổ khi dư luận biết mình làm điều xấu ác.

4. Đa văn: Nghe, nhớ,  tích lủy những lời Phật dạy bằng cách hành trì tụng đọc, áp dụng vào việc tu tập hằng ngày.

5. Tinh tấn: Siêng năng, chuyên cần tu tập, hướng tâm đến việc thành tựu các thiện phápxa lìacác bất thiện pháp.

6. Niệm: Thành tựu niệm tuệ tối thắng. Biết rõ những gì xảy ra ngay trong thực tại.

7. Trí tuệ:  Trí biết rõ vô thường, khổ, vô ngã, biết rõ sự sinh diệt của ngũ uẩn.

Khi thành tựu những pháp nêu trên, Đức Phật khuyên các hành giả tìm chỗ thanh vắng tu tập thiềnĐịnh. Hành giả ngồi kiết già, đặt chánh niệm trước mặt,  từ bỏ năm pháp ô nhiễm làm yếu ớt sự phát huy trí huệ đó là tham, sân, hôn trầmtrạo cử,  hoài nghithuật ngữ gọi là năm triền cái

 - Sơ thiền: Vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc, do ly dụcsanh. Nhị thiền: Tầm tứ yên lặng, trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâmTam thiền: Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Thân cảm sự lạc thọ, mà bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”. Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước. Tâm trở nên bất động. Chứng và trú tầng thiền thứ tư. Không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Phật dạy, hành giả cần tu tập cho đến khi chứng đắc bốn tầng thiền một cách dễ dàng, không khó khăn, không mệt mõi, không phí sức.

Trên đây là các pháp học pháp hànhĐức Phật giảng dạy cho  bậc hữu học, tâm chưa thành tựu vô thượng an tịnh các triền ách. Sau khi thành tựu những pháp nêu trên, bậc Thánh còn phải công phuđể tiến xa hơn, đoạn tận lậu hoặc, phát huy trí huệ tâm linh, chứng được ba minh: Túc mạng minhThiên nhãn minhLậu tận minh. Đến đây, việc tu hành đã hoàn mãn, các việc nên làm đã làm, đặt gánh nặng xuống. Các Ngài chứng quả A-La-Hán, không còn luân hồi sinh tử nữa.

 

IV. BỐN THÁNH QUẢ TRONG ĐẠO PHẬT

Con đường tu tập để thành tựu các Thánh quả trong đạo Phật là: Giới-Định-Huệ. Như giới thiệu ở phần trên, giữ Giới là pháp tu đầu tiên cho cả cư sĩ và tu sĩ. Giới là phương thức phòng hộ giác quantrợ duyên cho thiền Định. Tu Định là an trú vào các đề mục để thanh lọc và tịnh hóa tâmTâm địnhtăng tiến từ Sơ thiềnNhị thiềnTam thiền đến Tứ thiền

Từ tứ thiền hành giả chuyên tâm tu tập thiền Huệ, quán Vô thườngVô ngã đoạn trừ năm hạ phần Kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục, Sân) và năm thượng phần Kiết sử (Hữu áiVô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh) để lần lượt chứng đắc bốn quả Thánh:

1. Sơ quả Tu-Đà-Hoàn (còn gọi là Dự lưuNhập lưu hoặc Thất lai): Bậc Tu-Đà-Hoàn đắc phápnhãn, thấy được thân tâm vô thường dẹp được Thân kiếnHiểu rõ Phật, Pháp, Tăng, dứt trừ hoài nghi về Tam BảoTuyệt đối tin vào Nhân quả, vị ấy trì Giớibố thítham thiền... không còn mê tínTu thiền Quán bậc Tu-Đà-Hoàn dẹp sạch ba Kiết sử đầu là Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ, chứng Sơ quả Tu-Đà-Hoàn, gọi là Thất lai, vì còn tái sanh 7 lần để tiếp tục tu tập chứng đạt quả tối thượng.

2. Nhị quả Tư-Đà-Hàm (Nhất lai): Quả vị này đã đoạn tận được ba Kiết sử đầu là Thân Kiến, Nghi và Giới cấm thủHộ trì các căn làm suy yếu hai Kiết sử kế tiếp là Tham Dục và Sân hận chứng quảTư-Đà-Hàm, còn một lần tái sanh  để tiếp tục tu tập chứng đắc quả tối thượng nên gọi là Nhất lai.

3. Tam quả A-Na-Hàm (Bất lai): Quả vị này đoạn trừ 100% năm hạ phần kiết sửThân kiến, Nghi,  Giới cấm thủ, Dục và Sân. Bậc A-Na-Hàm còn gọi là Bất lai vì không còn tái sanh vào cõi dục. Sau khi thân hoại mạng chung, thường sanh vào cõi Sắc hoặc Vô sắc. Từ đó tu hành và chứng quả tối thượng.

4. Tứ quả A-La-Hán (Bất sanh): Quả vị đã đoạn trừ hoàn toàn mười Kiết sử, gồm năm hạ phần Kiết sử kể trên và năm thượng phần Kiết sửHữu áiVô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh.

Hữu ái tức là còn luyến ái sự hiện hữu trú vào cõi Sắc. Vô hữu ái tức thích sự không hiện hữu, ưa trú nơi cõi Vô Sắc. Nói cách khác tham đắm vào cõi Sắc và Vô Sắc là sự tham đắm vào bốn tầng thiền-na Hữu sắc và bốn tầng thiền-na Vô sắc tức là còn tưởng, còn tham. Mạn là tâm còn chấp sựchứng đắcTrạo cử là sự vấy động vi tế của tâm, kể cả sự thao thức về chứng ngộ. Vì còn vi tế lậu hoặc nên vẫn còn vi tế Vô minh. Phải đoạn trừ sạch sẽ lậu hoặc thì mới chứng được quả Bất sanh. Gọi là Bất sanh vì chứng đắc giải thoátan trú Niết-bàn không còn luân hồi nữa.

 

V. KẾT LUẬN

Mục đích của Phật Giáo là đoạn tận khổ đau, chứng đắc Thánh Quả giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên lộ trình tu tập các vị Thánh đệ tử của Phật phải đoạn trừ mười Kiết sử thông qua việc áp dụngtam vô lậu học: Giới-Định-Huệ.

Trong kinh có dạy người cư sĩ tại gia cũng có thể tu đắc quả A-La-Hán. Muốn đắc quả vị A-La-Hán, vị cư sĩ này đã thực sự cắt đứt tất cả những ràng buộc tham ái về tình cảm gia đình, cũng như vật chất thế gian, và con đường tu tập cũng phải vượt qua lộ trình đoạn tận mười Kiết sử, dẹp sạch lậu hoặc như lời Phật dạy. Nhưng khi chứng quả A-La-Hán, vị này phải xuất gia làm Tỷ-kheo, hoặc chủ động viên tịch ngay. Lý do là hình tướng tại gia không xứng với phẩm vị A-La-Hán. “Kinh Milinda Vấn Đáp” có ghi lại nguyên văn về vấn đề người tại gia chứng A-La-Hán như sau: “Người tại gianào đạt đến phẩm vị A-La-Hán, đối với vị này chỉ có hai lối đi, không có lối khác: Xuất gia nội trong ngày ấy, hoặc viên tịch Niết-bàn, ngày ấy không thể vượt qua”. (hết trích)

Bài viết này dựa trên kinh Nikãya nhằm cung ứng một vài khía cạnh cần biết trên đường tu học của thiền sinh Phật tử muốn tìm hiểu lộ trình tu tập trong đạo Phật như thế nào. Thực ra, trên con đường tu hướng đến giải thoát giác ngộĐức Phật có rất nhiều phương thức, tùy căn cơ của mỗi người mà Ngài chỉ dạy, nhưng phương thức nào cũng phải thông qua Giới-Định-Huệ. Trước khi rời bàn viết, chúng tôi nguyện chúc lành đến tất cả quý độc giả, quý Phật tử có duyên lành với Phật pháp, sớm lãnh hội được pháp học và pháp hành, sống một đời từ bitrí tuệ, và hạnh phúc.

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                      THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

            (March 06-2024 An cư Kiết Xuân tại TV. CHÂN NHƯ, Texas)

 

Tài liệu 

-Kinh Trung Bộ I: Bài 39 và 40: Kinh Xóm Ngựa. - Kinh trung Bộ II-Bài 53: Kinh Hữu Học. -Bài 61: Giáo Giới La-Hầu-La ở rừng A-bà-la. Bài 62: Đại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La.-Kinh Trung Bộ III-Bài 147: Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La- Kinh Milinda Vấn Đạo: “Câu hỏi về người tại gia chứng A-La-Hán”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1602)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1461)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1754)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1720)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1581)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1631)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1474)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1865)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1629)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1414)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1699)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2267)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1947)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1311)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1484)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1487)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1825)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1599)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1467)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1609)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1542)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1868)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1569)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1554)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1547)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1623)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1794)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1687)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1635)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1522)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1620)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1398)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 2125)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1436)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1646)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 3069)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1655)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1830)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1697)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2155)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1694)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1880)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 2100)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2279)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1778)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2726)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1811)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1945)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1912)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1692)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant