LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
CHÁNH VĂN :
Khi ấy, Đại Huệ bồ tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Như Thế Tôn nói "Thiện nam, tín nữ hành nghiệp Ngũ Vô Gián mà chẳng đọa địa ngục A Tỳ". Thế Tôn! Tại sao thiện nam, tín nữ hành nghiệp Ngũ Vô Gián mà chẳng đọa địa ngục A Tỳ?
Phật bảo Đại Huệ :
- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ bồ tát bạch Phật rằng:
- Lành thay thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ:
- Thế nào là nghiệp NGŨ VÔ GIÁN? Ấy là giết cha mẹ, hại La Hán, phá hòa hợp tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.
- Đại Huệ! Nói GIẾT CHA MẸ ở đây là ám chỉ hai thứ căn bản của sự thọ sanh, do tham ái làm mẹ, vô minh làm cha, đoạn dứt hai thứ căn bản ấy, gọi là giết cha mẹ.
- Thế nào là HẠI LA HÁN? Dụ như con chuột bị độc chết, thì những tai hại do con chuột gây ra đều chẳng sanh khởi nữa, cũng như các pháp phiền não tập khí cứu cánh đoạn dứt, gọi là hại La Hán.
- Thế nào là PHÁ HÒA HƠ.P TĂNG? Là nói các tướng tập khí phiền não khác nhau của ngũ ấm hòa hợp tích tụ, tất cả đều được đoạn dứt, gọi là phá hòa hợp Tăng.
- Thế nào là ÁC TÂM LÀM THÂN PHẬT RA MÁU? Vì chẳng biết bản thể của bảy thứ thức là do tự tâm biến hiện, chẳng ngoài tự tướng cộng tướng, nay dùng ác tâm (tâm mãnh liệt) của Tam Vô Lậu giải thoát (Không, Vô tướng, Vô nguyện) để đoạn dứt bảy thứ thức nơi tự tánh Phật, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu. Nếu thiện nam, tín nữ hành những việc vô gián này, gọi là ngũ Vô Gián, cũng gọi là Đẳng Vô Gián.
- Lại nữa, Đại Huệ! Có pháp ngoài Ngũ Vô gián, nay ta sẽ thuyết, ngươi và các Đại bồ tát nghe nghĩa này rồi, nơi đời vị lai chẳng đọa ngu si.
- Thế nào là NGOÀI NGŨ VÔ GIÁN? Nghĩa là nếu người muốn chứng đắc pháp Ngũ Vô Gián kể trên, mà thực hành theo ba cửa giải thoát (Không, Vô tướng, Vô nguyện trong kinh Đại Bát Nhã) thì mỗi mỗi đều chẳng thể chứng đắc pháp Ngũ Vô Gián, như dùng cửa KHÔNG cũng chẳng thể chứng đắc, dùng cửa VÔ TƯỚNG cũng chẳng thể chứng đắc, dùng cửa VÔ NGUYỆN cũng chẳng thể chứng đắc, nên nói ở ngoài Ngũ Vô Gián.
- Ngoại trừ pháp này ra, còn có các pháp, nhờ thần lực biến hóa mà hiện Vô Gián. Như thần lực biến hóa của Thanh Văn, thần lực biến hóa của Bồ Tát, thần lực biến hóa của Như Lai v.v... Đối với những kẻ tạo tội Vô Gián, vì sự sám hối tội lỗi và trừ nghi cho họ, cũng vì khuyến phát nhân lành cho họ, nên nhờ thần lực biến hóa mà hiện Vô Gián. Trừ khi người giác được tự tâm hiện lượng, lìa được vọng tưởng thân tài, lìa sự nhiếp thọ ngã và ngã sở, hoặc lúc gặp thiện tri thức khiến khai ngộ bản tâm thì mới được giải thoát sự sanh tử tương tục nơi các cõi, chứ chẳng phải trước kia đã tạo tội Vô gián mà chẳng bị đọa địa ngục Vô Gián vậy.
Lược giải :
"Ba cửa Giải Thoát" tại sao chẳng thể chứng đắc pháp Ngũ Vô Gián? Vì pháp đã Không, Vô tướng, Vô nguyện thì năng sở đều bặt, dĩ nhiên không có kẻ năng chứng để chứng cái pháp sở chứng, thì làm sao có sự chứng đắc ư?
Nói về THẦN LỰC BIẾN HÓA, cũng như năm trăm vị Tỳ Kheo trong hội Linh Sơn, đã đắc bốn thứ thiền định và năm thứ thần thông, nhưng chưa đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, nhờ sức thần thông của Túc Mạng Trí, mỗi mỗi tự thấy quá khứ giết cha hại mẹ và tạo nhiều tội nặng khác, nên trong tâm tự hoài nghi, do đó chẳng thể chứng nhập pháp thâm sâu. Cho nên, Văn Thù bồ tát thừa oai thần Phật, bèn dùng tay cầm gươm bén bức bách Như Lai (dụ cho ác tâm làm thân Phật chảy máu, cũng là một phương tiện để độ năm trăm vị Tỳ Kheo). Khi ấy, Thế Tôn bảo Văn Thù bồ tát rằng : ỏỏThôi, thôi! Chớ nên phản nghịch hại ta; Ta ắt sẽ bị hại, ấy là khéo bị hại. Tại sao? Vì Văn Thù bồ tát xưa nay đã chẳng có tướng nhân ngã. Chỉ vì trong tâm họ (năm trăm vị Tỳ Kheo) thấy có nhân ngã, khi nội tâm sanh khởi ngã, thì sẽ bị hại (người tu ắt phải phá ngã chấp), nên gọi là hại ỏỏ. Khi ấy, năm trăm vị Tỳ Kheo tự ngộ bản tâm như mộng, như huyễn, nơi mộng huyễn chẳng có nhân ngã, cho đến chẳng có cái năng sanh, sở sanh của cha mẹ, do đó, năm trăm vị Tỳ Kheo đồng thanh tán thán rằng:
- Văn Thù bậc Đại Trí, thấu tận đáy các pháp, khéo dùng phương tiện bức bách Như Lai, thị hiện dùng gươm bén (năng hại) và thân Phật (sở hại) đều do tâm tạo, một tướng chẳng có hai, Vô Tướng ắt Vô Sở Sanh, thì làm sao có sự giết hại kia!
Nay nói thần lực biến hóa của Như Lai, là dùng phương tiện khiến những kẻ tạo tội Vô Gián đều được giải thoát, cũng chứng tỏ "Nhất thiết duy tâm tạo" vậy.
Lược giải hết
CHÁNH VĂN
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Vô minh gọi là cha.
"Thức" giác ngộ là Phật,
Phiền não là La Hán
Ngũ ấm gọi là Tăng,
Hành vô gián đoạn ác.
Gọi là Ngũ Vô Gián,
Chẳng đọa ngục A Tỳ.
- Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng giảng thuyết thế nào là tri giác của Phật?
Phật bảo Đại Huệ :
- Giác được nhân và pháp Vô Ngã, liễu tri hai chướng phiền não và sở tri, lìa hai thứ sanh tử phần đoạn và biến dịch, đoạn dứt hai thứ phiền não vô minh và ái nghiệp, ấy gọi là tri giác của Phật. Thanh Văn, Duyên Giác đắc được pháp này cũng gọi là Phật, do nhân
duyên này Ta thuyết Nhất Thừa.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Khéo biết hai vô ngã
Hai chướng phiền não dứt
Lìa hẳn hai sinh tử